Tính khí được xem như 1 “trụ bê tông” vững chắc
– cái nền tác động mạnh mẽ, quy định tính cách sâu xa của con người bao gồm những
thiên hướn đặc trưng cho đời sống cảm xúc mỗi cá nhân. Một phần nào đó, tính
khí được xem như một di sản di truyền từ bố mẹ cho con trẻ. Câu hỏi đặc ra là
những xúc cảm mang xu hướng “bẩm sinh” này có thể thay đổi được không ?
Một câu trả lời rõ ràng nhất đã được nghiên cứu
bởi ông Jerome Kagan (25/2/1929)- Giáo sư Tâm lý học trường Đại học Harvard.
Theo vị giáo sư này, có ít nhất 4 loại tính khí cơ bản và tương ứng với một sơ
đồ hoạt động não khác nhau là: nhút nhát, táo bạo, lạc quan và u sầu. Tuy nhiên
với sắc thái tính khí thì có vô số loại tùy thuộc vào sự khác biệt bẩm sinh
trong vòng mạch cảm xúc.
Đặc điểm tâm lý thần kinh của trẻ nhát nhát.
Theo Kagan, những cá nhân trưởng thành nhút
nhát vốn dĩ là những đưa trẻ rất nhạy cảm và hay sợ hãi: sợ với mọi thứ được bản
thân xem là khác thường- không ăn những gì mà trẻ chưa biết, ngại ngùng không
tiếp cận với động vật hay những người xa lạ chưa từng biết trước đó, xu hướng
suy nghĩ tiêu cực – tự xem mình như một kẻ tội đồ cùng với cảm giác ân hận. Sự
lo lắng làm họ trở nên thu rút hoặc hạn chế các mối quan hệ xã hội. Chính vì những
thuộc tính này được hình thành và cũng cố âm tính một cách “vững chắc”, khi trưởng
thành như một sự cố hữu chúng trở nên yên lặng, sống trầm lắng và cảm thấy lúng
túng khi nói/ trình bày trước đám đông. Có thể nhận thấy, trẻ nhút nhát dường
như khi sinh ra đã được hình thành các vòng mạch nơ-ron quá đỗi nhạy cảm dù là
các tác động/ kích thích nhẹ.
Nghiên cứu của Kagan chỉ ra rằng ở trẻ nhút
nhát có đặc điểm thần kinh đó là vòng mạch nơ ron hướng vào hạnh nhân (Amygdala – có vai trò như 1 vùng não chính
trong việc xữ lý, diễn dịch và tổng hợp các thông tin có liên quan về cảm xúc, Clugnet
& LeDoux, 1990), rất có thể
sự kế thừa tỉ lệ cao những norepinephrine và các hoạt chất nội tiết tố khác
kích hoạt hạnh nhân dễ bị kích động với ngưỡng thấp. Chính sự kịch phát của
norepinephrine đã duy trì hạnh nhân trọng trạng thái kích động và qua vòng mạch
nơ-ron nối tiếp, nó tiếp tục gây nên các kích thích đến hệ thần kinh giao cảm dẫn
đến việc tăng vượt mức các chỉ số về mức độ phản ứng: huyết áp, đồng tử giản
to…
Một trong những dấu hiệu của nhút nhát đó chính
là sự im lặng. Điều này cũng được chính minh bởi các bằng chứng khoa học về tâm
lý học thần kinh, trẻ rơi vào tình huống tiếp xúc với người lạ trẻ nhút nhát
nói ít hơn những trẻ khác, cơ chế này đó là hệ quả từ hệ thống hoạt động các
vòng mạch nơ-ron nối liền não trước, hạnh nhân và cấu trúc lân cận điều khiển lời
nói.
Các vòng mạch từ các nơ –ron sẽ mất đi nếu ít đực
sử dụng và ngược lại, nó sẽ được cũng cố vững chắc hơn trong các mạch liên bào
nếu được sử dụng liên tục, nhiều nhất. Quá trình này diễn ra một cách liên tục
và nhanh chóng, các vòng mạch liên kết được hình thành chỉ trong vài giờ hoặc
đôi lúc là vài ngày kết hợp với các trải nghiệm thời thơ ấu đã giúp bộ não của
trẻ được trưởng thành hơn. Cho đến tuổi thiếu niên được xem như một thời kỳ của
sự “cắt xén” và sàng lọc các vòng mạch nơ-ron.
Những vùng thuộc trung khu thân kinh có ý nghĩa
quyết định đối với đời sống cảm xúc thường phải rất lâu để đạt đến trạng thái
hoàn chỉnh, đối với thùy trán- nơi kiểm soát và quản lý cảm xúc góp phần không
nhỏ trong các phản ứng vào thời niên thiếu đạt đến độ
“chín muồi” có khi đến giai đoạn 16-18 tuổi. Đến
đây ta có thể thấy rằng, sự tương tác và song hành mang tính nối kết giữa các
vòng mạch nơ-ron và các kinh nghiệm thời thơ ấu cho đến niên thiếu đã ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng về xúc cảm của trẻ.
Vậy một đứa trẻ có tính khí nhút nhát có phải sẽ
luôn là kẻ nhút nhát chăng ?
Số phận không bị quy định bởi tính cách. Trẻ có
thể gặp phải sự sợ sệt, lo hãi trong thời thơ ấu. Nhưng sẽ không trở thành kẻ
nhút nhát khi lớn lên nếu trẻ trải qua những kinh nghiệm thích hợp, trẻ sẽ chế
ngự được hạnh nhân siêu nhạy cảm – kinh nghiệm xúc cảm là nhân tố quyết định
phương pháp giáo dục, ứng xử của ba mẹ.
Thái độ ứng xử của bố mẹ trong các tình huống
thực tế quyết định phần lớn đến sự phát triển của trẻ nhỏ. Và thực sự, có vô
vàn vấn đề dù là xuất phát từ sự yêu thương con nhưng vô tình gây nên những
“tác dụng phụ” không mong muốn. Chúng tôi xin liệt kê một số vấn đề về ứng xử,
phương pháp giáo dục con trong danh sách tạm gọi là “chống chỉ định”:
-
Phải
làm cho đứa con bé bỏng của mình tránh được sự phật ý dù nhỏ nhất.
-
Phải
làm cho trẻ quen đương đầu với khó khăn và đó chính là hành trang chuẩn bị cho
trẻ chiến đấu với sóng gió của cuộc đời.
-
Sự
chăm sóc và che chở “cục vàng” một cách thái quá. Dường như chính điều này như
một yếu tố cũng cố âm tính cho sự nhút nhát – có lẽ vì điều này vô tình tước đi
những trải nghiệm mang tính giáo dục về bài học tự tin để chiến thắng sự rụt rè
thiết tự tin của bản thân.
Vậy sự kiên quyết trong cách ứng xử có được xem
là phù hợp trong việc giáo dục con trẻ chống lại tính nhút nhát ?
Sự khác biệt tạo nên những yếu tố nền tảng về
giáo dục trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách nơi trẻ là cả một vấn
đề. Cần phải thận trọng và ứng xử một cách khéo léo từ các bậc phụ mẫu với những
hành vi không mong muốn – những hành vi thiếu phù hợp từ trẻ nhỏ.
Một hành vi được bộc lộ nơi trẻ, thường thấy đối
với trẻ lên một đó là trẻ đưa một vật lạ vào miệng để nuốt. Có hai xu hướng ứng
xử thường găp, nếu là một người mẹ - bạn sẽ chọn cách ứng xử nào:
-
Sự
âu yếm thường đến và theo đó là sự khoan dung hơn khi đứa trẻ làm một điều gì
đó có thể sai trái và nguy hiểm.
-
Một
hướng ứng xử đến từ nhóm các bà mẹ cố dạy con cách kiềm chế cảm xúc với một sự
kiên quyết: đặt ra các giới hạn chặt chẽ, đưa ra mệnh lệnh trực tiếp, ngăn con
lại và yêu cầu trẻ tuân theo.Nhóm ứng xử thứ 2 - đến từ sự kiên
quyết được lựa chọn và xem như là phương thuốc đặc trị chống lại tính nhút
nhát. Và sau đây là cơ chế dựa trên lý thuyết hành vi trong tình huống này. Khi
trẻ tiếp xúc với đồ vật mà người mẹ nhận thấy đó là một yếu tố mang tính nguy
hiểm, nó liền bị ngăn lại và trẻ hiểu rằng: đừng đụng tới nó ! – được lặp đi lặp
lại nhiều lần, trẻ buộc phải thích nghi ngại nhỏ tiếp tục được lặp lại nhiều lần
trong những năm tháng đầu đời của trẻ như một sự ôn tập liên tục với liều lượng
nhỏ khi trẻ tiếp xúc với những điều chưa biết. Nhu cầu chế ngự cảm xúc lại
càng trở nên cấp thiết hơn đối với trẻ nhút nhát với một tần suất và “liều lượng”
vừa phải là một môi trường giáo dục hành vi lý tưởng.
Càng quan trọng hơn, khi trẻ rơi vào
trạng thái bối rối hay lo sợ. Trí tuệ xã hội đóng một vai trò quan trọng kết hợp
với các trãi nghiệm trong việc thiết lập và duy trì, phát triển nhằm thích nghi
với các mối quan hệ xã hội sẽ làm tăng thêm cho trẻ những cơ hội vượt qua những
ức chế mang tính tự nhiên cho việc kiểm soát và quản lý cảm xúc. Ý thức hợp
tác, sự hiểu biết về người khác cũng như năng lực thích nghi và hòa hợp – kết nối
tình bạn, lắng nghe tích cực, chia sẻ và tỏ ra ân cần. Đây là những nét tính
cách đặc trưng của trẻ có tính khí nhút nhát ở giai đoạn 4 tuổi, nhưng cũng
chính nhờ những yếu tố này mà khi lên 10 tuổi đã vượt qua được sự nhút nhát.
Cơ chế tâm lý được nhận thấy đối với
trẻ có tính khí nhút nhát trong 6 năm đầu đời – khi mà tính cách chúng không có
sự thay đổi đó chính là khả năng chế ngự cảm xúc của trẻ yếu kém. Và thật sự
khó khăn hơn cho khả năng kiểm soát cảm xúc của nhóm trẻ này khi chúng rơi vào
những trường hợp căng thẳng (sự thích nghi kém với môi trường xã hội, bối rối
và sợ hãi, hờn dỗi và hay mau nước mắt), phản ứng trước các yếu tố mang tính
kích thích trong môi trường xã hội bằng sự tức giận thái quá với những thất vọng
và sự phê phán dù là nhỏ nhất, không có khả năng trì hoãn những ham muốn đòi hỏi
từ nơi chúng, luôn có thái độ đa nghi.
Ngược lại hoàn toàn, những trẻ làm
chủ cảm xúc tốt thường có nhiều trải nghiệm tích cực cùng với các mối quan hệ
xã hội tích cực với một trạng thái thoải mái. Ngay cả trong giai đoạn đầu tiên
khi làm quen với một người bạn mới chẳng hạn, một khi đã vượt qua sự rụt rè và
e ngại ban đầu, trẻ sẽ nhanh chóng thích nghi và trò chuyện một cách vui vẻ.
Chính những trải nghiệm này được tích lũy dần sẽ đem lại sự tự tin cho trẻ nhút
nhát.
Với những điều này có thể thấy rằng
ngay cả thiên hướng cảm xúc bẩm sinh, ở mức độ nào đó cũng có thể thay đổi. Một
đứa trẻ hay khóc nhè cũng có thể học được sự bình tĩnh và thích nghi hơn đối với
điều chưa biết thậm chí là cởi mở
hơn. Không chỉ sự tác động từ yếu tố gen quyết định ứng xử của con người theo
các nhà di truyền học mà bên cạnh đó, các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng môi trường
sống đặc biệt là kinh nghiệm trong quá trình sống với những gì các nhân tiếp
thu trong thời kỳ thơ ấu, cũng góp phần không nhỏ đến mỗi cá nhân. Vậy, thiên
hướng cảm xúc không phải chỉ được quy định một lần và mãi mãi ở trẻ mà chúng ta
có thể giúp trẻ hoàn thiện để trở nên thích nghi hơn bằng những sự tập luyện
thích hợp.
Nguồn tài liệu tham khảo
1. Dr. Daniel Goleman, Emotional
Intelligence (1995)