Hồ Chủ Tịch, một vị lãnh tụ vĩ đại đã từng nói rằng “
Ai cũng cần có lòng tự trọng và tự tin. Không có lòng tụ trọng, tự tin là người
vô dụng”. Vậy lòng tự trọng đóng vai trò quan trọng như thế nào ? Sự tự tin có
phải là yếu tố nhằm cũng cố lòng tự trọng của mổi cá nhân? Với xu thế xã hội
ngày nay, áp lực luôn tồn tại ở mọi lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, chính trị…Cơ
chế thích ứng tạo nên sự cân bằng giúp con người hình thành và phát triển những
đáp trả các tác nhân kích thích từ môi trường bên ngoài ? Vậy điều gì sẽ xảy ra
nếu cơ chế này trở nên thiếu thích ứng vì những trải nghiệm tiêu cực về giá trị
hình ảnh của bản thân ? Những yếu tố nào gây nên sự thấp kém/giảm sút về lòng tự
trọng ? Làm sao để thoát khỏi tình trạng này ? Đó là những khía cạnh được chúng
tôi lưu ý đến trong bài viết này.
Đối với trẻ em, và trẻ vị thành niên đây là hai nhóm
tuổi có nguy cơ cao nhất về vấn đề suy giảm/nhận thức kém cỏi về hình ảnh bản
thân/lòng tự trọng bản thân trở nên thấp kém. ( Low Self –Esteem). Những trải
nghiệm thời thơ ấu cùng những tác nhân cũng cố âm tính tác động tiêu cực (được đề cập ở nội dung tiếp sau của bài viết)
đến quá trình hình thành và duy trì, phát triển hình ảnh bản thân.
Mặc dù được nhìn nhận như những quan điểm nhưng hình ảnh
về bản thân có thể được xem như một “bản báo cáo” đầy thực tế thông qua các kết
quả từ các trải nghiệm trong cuộc sống như những thông điệp về những gì đang tồn
tại nơi con người của chúng ta. Bao gồm sự tự đánh giá (giá trị của bản thân về
những điều tích cực và tiêu cực) bên cạnh đó là quá trình tiếp nhận các đánh
giá về bản thân từ những người xung quanh (gia đình, bạn bè, thầy cô, và một số
mối quan hệ xã hội khác). Quả nhiên nếu các đánh giá với mức độ tích cực chiếm
ưu thế thì hình ảnh bản thân của chúng ta cũng sẽ tích cực và ngược lại. Những
trải nghiệm mang tính cá nhân trong quá trình sống, các hệ quả từ những trải
nghiệm này là “những bài học – những kinh nghiệm” – như một cơ thế cân bằng đáp
ứng nhu cầu sự thích nghi với môi trường sống xung quanh, hình thành nên những
cơ chế ứng phó khi có tình huống xảy ra cho mỗi người theo cách mà từ chính môi
trường sống xung quanh đã dạy họ.
Những kinh nghiệm bày đóng một vai trò quan trọng
trong việc hình thành và duy trì niềm tin về hình ảnh của riêng bản thân mình.
Đó có thể là hệ quả từ các mối quan hệ/cách ứng xử - giao tiếp và phương thức
giáo dục từ gia đình, về những hoạt động xã hội mà mỗi người con người tham
gia, từ các trải nghiệm nơi trường học, trải nghiệm thời thơ ấu…bao gồm những
gì mà ta nghe, ta thấy và ta cảm thông qua quá trình mã hóa lưu trữ cùng với
quá trình nhận thức sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tác động một cách trực
tiếp đến lòng tự trọng của mỗi cá nhân.
Một số nghiên cứu cho thấy sự khác biệt quan trọng giữa
các cá nhân có sự lòng tự trọng cao (thường xuyên xuyên chú tâm đến việc duy
trì, xây dựng và phát triển lòng tự trọng) ngược lại, những người có lòng tự trọng
thấp (thường hay chú tâm vào những sai lầm, kết quả thất bại trong cuộc sống).
Lòng tự trọng thấp được chứng minh có liên quan đến một số các hệ quả tiêu cực
như trầm cảm (Silverstone, & Salsali, 2003).
Vậy những yếu tố nào ảnh hưởng đến hình ảnh về bản
thân,chúng ta sẽ cùng xem xét với một số khía cạnh sau:
·
Hệ thống các hình phạt (Hệ quả từ các phương thức
giáo dục kém thích hợp) – môi trường mang tính bạo lực, sự bỏ bê hay lạm dụng.
·
Những ước nguyện và nguyện vọng từ bố - mẹ, gia
đình tạo nên những áp lực mà bản thân cảm thấy dù nổ lực đến mấy cũng không thể
nào đáp ứng được.
·
Sự thiếu hụt về kỹ năng ứng phó, kỹ năng giải
quyết vấn đề, kỹ năng tự bảo vệ - chăm sóc bản thân, kỹ năng từ chối….
·
Việc thiếu thốn hệ thống nâng đỡ tâm lý (những
người tạo nên cảm giác an toàn và đủ để cảm thấy tin cậy trong việc chia sẻ cảm
xúc, áp lực…)
·
Được xem như là một nạn nhân phải lãnh chịu/tiếp
nhận một cách thụ động, gián tiếp những căng thẳng hoặc đau khổ từ một người
khác mà bản thân không đủ khả năng để đáp ứng/hỗ trợ.
·
Môi trường thiếu vắng sự ấm áp, quan tâm, yêu
thương chân thành. Chỉ nhận lấy nhều lời chê bai mà thiếu vắng sự động viên,
khen ngợi.
·
Bị cô lập tại trường, ở nhà, nơi làm việc…
·
Những ký ức tổn thương tâm lý, nặng nề hơn đó là
những san chấn tâm lý, stress kéo dài, trải nghiệm thất bại liên tục thiếu kém
sự động viên kịp thời.
Hai yếu tố góp phần không nhỏ vào việc hình thành
hình ảnh bản thân đó là: những nhận thức tự động sai lệch và diễn giải sai lệch
dẫn đến sự khủng hoảng trong phản ứng đáp trả kích thích (một số cơ chế tự vệ
được xem xét như: sự thoái lùi, sự phủ nhận, sự dồn nén…). Với các suy nghĩ và niềm tin tiêu cực,
phải chịu đựng hậu quả của việc xử lý các nhận thức âm tính, kém thích nghi
như:
-
Xu
hướng có những suy nghĩ tiêu cực.
-
Hệ
thống niềm tin tiêu cực không đúng với thực tế .
-
Khuynh
hướng trung thành với những giá trị mà gia đình đã đặt ra mặc dù bản thân cảm
thấy ấp lực và mệt mỏi.
Bên cạnh đó là các yếu tố cũng cố âm tính thúc đẩy (Guindon,
2002) bao gồm:
-
Sự
nhút nhát, tự cô lập bản thân, im lặng.
-
Cảm
giác không an toàn, thiếu sự bảo vệ.
-
Thái
độ/quan điểm tiêu cự về sự việc, tình huống diễn ra.
-
Buồn
rầu.
-
Thiếu
thích ứng với môi trường hiện tại.
-
Cảm
giác giận dữ, hay gây hấn/thù địch.
-
Thiếu
những động lực/mục tiêu cho bản thân một cách tích cực.
-
Căng
thẳng/ lúc nào cũng có cảm giác là bị giám sát, theo dõi.
-
Nhận
thức về bản thân thiêu tích cực.
-
Hạn
chế/ yếu kém trong việc thiết lập mối quan hệ xã hội.
-
Phản
ứng/đáp ứng một cách tiêu cực thông qua: suy nghĩ, cảm xúc, hành vi.
Với thuyết nhận thức hành vi, quá
trình có thể được nhìn nhận thông qua sơ đồ sau:
Việc tác động vào những suy nghĩ, niềm tin tự động với
kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức, kết hợp với kế hoạch can thiệp và thay thế các
hành vi thiếu thích ứng bởi các hành vi thích ứng, cung cấp các kỹ năng còn thiếu
hụt đáp ứng tốt về khả năng ứng phó và giải quyết vấn đề xảy ra trong cuộc sống,
cùng các trải nghiệm cảm xúc tích cực sẽ tạo nên những tác động trị liệu tâm lý
tích cực cho quá trình thay đổi hình ảnh tiêu cực về bản thân (Sự sút giảm- kém
về lòng tự trọng).
Vậy ta làm gì
hay như thế nào để có được sự duy trì về hình ảnh tích cực của bản thân, dưới
đây là một số đề nghị:
·
Đầu tiên, ta cần phải nhận diện và thách thức
các niềm tin tiêu cực thông qua các lập luận, bằng chứng xác đáng chống lại các
niềm tin này – nhằm thúc đẩy lòng tự trọng. Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách
ghi lại nhật ký giống như là nhật ký cảm xúc, với việc ghi nhận các suy nghĩ
tiêu cực về bản thân và thế giới xung quanh như: “mày đúng là ngu ngốc”, “mày
thật là tệ hại”, “chẳng ai quan tâm tôi cả”…và tự hỏi chúng xuất hiện từ bao giờ
?
·
Tiếp theo, chúng ta cần liệt kê ra các bằng chứng
nhằm thách thức/chống lại các niềm tin tiêu cực này, những nhận xét tích cực về
bản thân mà bạn cho là đúng, cũng không quên viết ra những nhận xét tốt đẹp mà
mọi người đã nhìn nhận về bạn.
·
Sẽ là một thiếu xót khi bản thân tạo cho mình một
danh sách ít nhất là 5 điều tích cực mà bản thân mình có: tôi đạt kết quả cao
trong học tập, tôi giúp bố mẹ công việc nhà, tôi được cô đánh giá là một học
sinh chăm chỉ…bên cạnh đó là những điều mình còn hạn chế, với một khẩu hiệu tự
động viê hay một câu nói mà bạn tâm đắt như “cố lên tôi ơi, rồi sẽ đạt được
thôi mà ^.^” hay “có công mài sắt, có ngày nên kim” chẳng hạn….
·
Không quên thiết lập một kế hoạch chăm sóc bản
thân với những điều mình thích, tự thưởng cho bản thân….
·
Bên cạnh đó, còn có một số cách khác nhằm hỗ trợ
trong việc tăng cường nhìn nhận tích cực về hình ảnh bản thân:
-
Nhận diện những gì tốt đẹp mà bạn đang có.
-
Xây dựng, duy trì, mở rộng và phát triển các mối
quan hệ xã hội tích cực, các hoạt động cộng đồng mà điều này giúp đỡ được bạn
trong việc lắng nghe - chia sẻ, thể hiện
bản thân, không ngừng hỗ trợ giúp bạn phát triển năng lực bản thân.
-
Tử tế và tôn trọng lấy chính mình. Giáo sư Williams (Giáo sư phụ trách bộ môn tâm lý – tâm thần học trường ĐH Glasgow) khuyên rằng: "Hãy rộng lượng với chính mình. Điều đó có
nghĩa là nhẹ nhàng với chính mình những lúc bạn cảm thấy như đang
tự phê bình. Hãy suy nghĩ những gì bạn muốn nói
để khuyến khích một người bạn trong
một tình huống tương tự. Chúng tôi thường đưa ra
lời khuyên tốt hơn cho người khác
hơn là chúng ta làm cho chính chúng ta”.
-
Cần có sự quyết đoán, và kỹ năng từ chối – Say
“no”.
-
Tự đặt cho mình những mục tiêu, những thách thức
(phù hợp với thực tế và năng lực của bản thân – điều có thể thực hiện), mà điều
này như là một động lực giúp bạn nỗ lực cố gắng.
Nhưng một khi bạn rơi vào vòng xoáy cảm xúc tiêu cực
mà không thể nào tự thoát ra, sự thất vọng, chán nản, cảm giác căng thẳng và sợ
hãi luôn bên bạn, hành vi tự trừng phạt bản thân...với những dấu hiệu này, khuyến
nghị dành cho bạn là: hãy tìm đến sự giúp đỡ từ chuyên viên tâm lý, nhà tâm lý,
bác sĩ chuyên khoa tâm thần đáng tin cậy.
Tài liệu tham khảo:
1. Abraham,
T. (1988). Toward a Self-Evaluation Maintenance Model of Social Behavior. In L.
Berkowitz (Ed), Advances in Experimental Social Psychology (pp.
181–227).Academic Press.
2. Coopersmith,
S. (1967). The Antecedents of Self-esteem. Freeman.
3. Harter,
S. 1993. Causes and Consequences of Low Self-esteem in Children and
Adolescents. In Baumeister, R.F. (Ed.) Self-Esteem: The Puzzle of Low
Self-regard (pp. 87-116).
4. Mruk,
C. (1995). Self-Esteem: Research, Theory, and Practice. Springer.
5. Rosenberg,
M., & Owens, T.J. (2001). Low self-esteem people: A collective portrait. In
T.J. Owens. S. Stryker, & N. Goodmanm (Eds.), Extending self-esteem
theory and research (pp. 400-436). New York: Cambridge University Press.
6. Sharon
L.Johnson, Copyright 1997. 1-2-3 The Therapist’s Guide to Clinical
Intervention.