VÌ SAO CẦN PHẢI ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TRONG QUÁ TRÌNH CAN THIỆP CHO TRẺ CÓ NGUY CƠ HOẶC MẮC PHẢI RỐI LOẠN TỰ KỶ
Trước
một trẻ có nguy cơ tự kỷ (chưa hội tụ đủ các tiêu chí chẩn đoán dựa trên bảng
phân loại sức khỏe tâm thần hiện hành DSM-V hoặc ICD 10) hoặc trẻ mắc phải các
vấn đề về Rối loạn phát triển. Điều đầu tiên mà chúng ta cần phải thực hiện đó
là:
-
Đánh
giá mức độ phát triển hiện tại mà bản thân trẻ đang có: trẻ có thể làm được gì
? Chưa làm được gì ? Điều gì mà bản thân trẻ có khả năng thực hiện trong tương
lai cho đù đó là do bản thân trẻ hoặc được sự hỗ trợ từ người khác ? Những điều
mà trẻ muốn làm ?...
-
Dựa
trên những khởi điểm từ bước một, chúng ta xây dựng một kế hoạch can thiệp dài
hạn cũng những việc xây dựng một khung các nục tiêu can thiệp ngắn hạn một cách
cụ thể. Đồng thời việc tư vấn và đồng hành cùng phụ huynh (thông báo về tình trạng
và thông tin khoa học về tình trạng mà trẻ mắc phải, hướng phụ huynh của trẻ tiếp
cận đến hệ thống hỗ trợ cho trẻ nếu có, cùng thảo luận về các phương thức can
thiệp – trị liệu cho trẻ nhằm giúp phụ huynh hiểu - chấp nhận à thống nhất và thiết lập một cầu nối giữa gia
đình và hệ thống can thiệp.
-
Việc
lượng giá cho quá trình can thiệp cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng như:
sẽ quan sát và đánh giá trẻ như thế nào ? công cụ hỗ trợ ra sao ? Hạn mức bao
lâu là đánh giá một cách hợp lý ? Khi trẻ không thực hiện được những mục tiêu
được đặt ra thì cầ phải làm gì ?
Ở bước
đầu tiên, việc xác định là đánh giá mức độ phát triển của trẻ có nguy cơ tự kỷ
cần đảm bảo đúng với chẩn mực khoa học và các mốc phát triển theo lứa tuổi của
trẻ. Đóng một vai trò vô cùng quan trọng, thực sự nếu khâu đầu tiên này trở nên
sai lệch thì mọi cố gắng cho tiến trình hỗ trợ và trị liệu, giáo dục cho trẻ đều
là dã tràng se cát biển đông, vì rằng các phương thức tác động mang tính ép buộc
từ bên ngoài này vô tình trở thành những “hình phạt” mang tính bạo lực một cách
máy móc và áp chế trẻ phải thay đổi như một cổ máy được “thiết lập chế độ vận
hành tự động”. Vậy chiếc “cầu nối” để cả một hệ thống hỗ trợ nâng đỡ - giáo dục
và trị liệu cho trẻ đạt đến một mục đích chung là “nhìn về cùng một hướng – những
gì mà bản thân trẻ đã đang và có thể sẽ đạt được trong tương lai” – một “hành
trình cùng làm người và sống một
cách thực thụ hướng đến sự trọn vẹn với trẻ”. Vậy cơ sở của việc tiến hành lượng
giá về mức độ phát triển này được hình thành dựa trên cơ sở nào ? Đánh giá trên
những lĩnh vực nào…chúng ta cùng tham khảo cùng với nội dung tiếp sau đây.
11. Đánh giá mức độ phát triển của trẻ
có nguy cơ về rối loạn tự kỷ.
Dựa trên cơ sở lý thuyết về phát triển mà L.X
VYGOTSKY, tác gả Eric Schopler đã đưa ra cách nhận định về 3 vùng sinh hoạt của
trẻ bao gồm:
-
Vùng thứ 1 là vùng tự lập. Ở đây, trẻ em đã có khả năng sống một mình, làm một
mình, chơi một mình, không cần có sự giúp đỡ hoặc khích lệ của một người lớn à
Dựa vào Vùng Tự lập (+), chúng ta khám phá và tạo ra những vui thích và năng động
cho trẻ em. Mỗi lần trẻ em gặp vấn đề, khó khăn, trắc trở, chúng ta giúp trẻ em
đi lui, quay trở về với các sinh hoạt trong Vùng Tự lập, để tìm lại lòng tự
tin, hay là ý thức về khả năng hiện thực của mình.
-
Vùng thứ 3 là vùng xa lạ (không an toàn) . Ở đây, với
những điều kiện tâm lý hiện tại, trẻ em không có khả năng làm chủ tình hình,
hay là không thể nào thực hiện một điều gì, cho dù với sự giúp đỡ và khích lệ tối
đa của một người lớn. Nếu bị ép buộc phải sinh hoạt, trong vùng xa lạ nầy, trẻ
em sẽ tức khắc từ chối, bằng những hành vi chạy trốn, khóc la, nhắm mắt, bịt
tai, ngoảnh mặt nhìn chỗ khác. Nếu người lớn không hiểu cách từ chối của trẻ
em, vẫn tiếp tục thúc ép, đòi hỏi, áp đặt… trẻ em sẽ từ từ thoái hóa, sa vào
tình trạng tê liệt, bị động, ù lì và trầm cảm nặng. Khi có những dấu hiệu cho
thấy trẻ đang bước vào Vùng Xa lạ (-), chúng ta hãy sáng suốt và can đảm sáng tạo
những dụng cụ sư phạm, nhằm giúp trẻ dừng lại. Ngoài ra, trong quan hệ tiếp
xúc, chúng ta không « cố tình xô đẩy » gắn nhản cho trẻ vào Hành Vi Rối
Lọan hay là Triệu chứng, nghĩa là từ chối, chống đối, phản loạn, một cách vô thức,
máy móc và tự động.
-
Vùng thứ 2, nằm ở giữa hai vùng 1 & 3, mang
tên là vùng học tập hay là vùng trung gian. Khi nhận thấy trẻ
em đang sinh hoạt một cách tự lập và bộc lộ ra ngoài thái độ vui thích và hứng
khởi, một người lớn có những hiểu biết tâm lý và khả năng sư phạm, sẽ nhẹ nhàng
tiến lại gần, quan sát, đưa mắt nhìn, tạo quan hệ qua lại hai chiều. Từ đó,
chúng ta có thể đề nghị thêm một điều nho nhỏ, vừa tầm đón nhận và tiếp cận của
trẻ em. Với phương thức tác động nầy – nếu được tổ chức một cách có hệ thống,
bao gồm những bước đi lên từ dễ đến khó – trẻ em sẽ càng ngày càng nới rộng
ra vùng sinh hoạt tự lập và vui thích của mình. Đồng thời, vùng xa lạ sẽ lùi dần
và nhường bước cho vùng học tập.
Tác giả Eric Schopler cùng với các bạn đồng nghiệp,
vào những năm từ 1979 đến 1988, trong hai đợt làm việc với 420 trẻ em, đã sáng
tạo và hoàn chỉnh một bảng lượng giá có tên là PEP, bao gồm 174 tiết mục (bản lưu hành hiện nay là PEP-3 với 172 tiểu
mục thuộc 10 lĩnh vực khảo sát ) cùng với các công cụ hỗ trợ cho việc thực
hiện test đó là các công cụ giáo dục và vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Xoay
quanh các lĩnh vực được khảo sát nhằm đánh giá mức độ phát triển của trẻ. Dưới
đây là Sự khác biệt giữa test PEP phiên bản đầu và PEP -3 (cải tiến từ PEP).
Test PEP
|
Test PEP-3
|
1.-
Bắt chước (Bc) : 16 tiểu mục,
2.-
Nhận Thức (Nt) : 13 tiểu mục,
3.-
Vận động tinh (Vđt) : 16 tiểu mục,
4.-
Vận động thô (Vđth) : 18 tiểu mục,
5.-
Phối hợp mắt và tay (Ph) : tiểu mục,
6.-
Kỹ năng tư duy (Td) : 26 tiểu mục,
7.-
Kỹ năng ngôn ngữ (Nn) : 27 tiểu mục
|
1. Nhận thức bằng ngôn ngữ/tiền ngôn ngữ
(CVP)
2. Diễn đạt bằng lời (LE),
3. Tiếp nhận ngôn ngữ (LR)
4. Vận động tinh (MF)
5. Vận động tổng quát (MG)
6. Bắt chước vận động thị giác (IOM)
7. Biểu đạt cảm xúc (EA).
8. Tương tác xã hội (RS).
9. Hành vi vận động đặc trưng (CMC).
10. Hành vi ngôn ngữ đặc trưng (CVC)
|
Những
tiểu mục là câu hỏi không xếp đặt theo thứ tự từ dễ đến khó, tùy theo lứa tuổi
khôn lớn và phát triển của trẻ em từ 0 tháng (0 tuổi) đến 84 tháng (7tuổi) mà
chúng được hòa trộn vào nhau, trong giai đoạn khảo sát trẻ em. Tiếp sau đó, vào
giai đoạn tổng hợp kết quả bằng số lượng, sẽ phân định và đối chiếu 7 lĩnh vực
được liệt kê ở trên với nhau. Điều này nhằm phát hiện, trong sơ đồ thể hiện kết
quả, đâu là điểm MẠNH và điểm YẾU hay là điểm CAO và điểm THẤP của trẻ đang có
tại thời điểm được đánh giá. Quá trình tổng điểm thô dựa vào 3 thể thức mà trẻ
đạt được bao gồm:
-
Điểm cộng (+): khi trẻ thực hiện, trả lời đúng
mà trẻ tự thực hiện hoặc có sự giúp đỡ từ người khác.
-
Điểm trừ (-): khi trẻ không thực hiện được hoặc thất bại
trong các tiểu mục (trẻ không muốn, không biết và không tìm cách làm, mặc dù được
người lớn hướng dẫn, nâng đỡ và khích lệ tối đa, bằng nhiều cách khác nhau. Tuy
nhiên, khích lệ như vậy không có nghĩa là ép buộc, cưỡng chế, áp đặt, sử dụng bạo
động, trừng phạt, đe dọa).
-
Điểm cộng và trừ (+/-): bản thân trẻ có thiện chí và ý định
trả lời, cũng như hợp tác và lắng nghe, tuy dù kết quả cuối cùng không đạt chỉ
tiêu. Chúng ta tìm cách khích lệ, khen thưởng và củng cố, khi trẻ đang rụt
rè bước vào Vùng Học tập (+/-).
Với
trẻ có rối loạn hành vi, cần chú ý khảo sát trên 2 bình diện là quan hệ và xúc
động. Sẽ được mở rộng hơn với việc khảo sát trên 4 bình diện đối với trẻ có rối
loạn phổ tự kỷ là:
-
Vấn đề về thiết lập mối quan hệ (RlQh): khả năng
tiếp xúc và tạo mối quan hệ như lắng
nghe, giao tiếp bằng mắt, tiếp nhận và thực hiện mệnh lệnh…
-
Vấn đề có liên quan đến quá trình tiếp nhận, đáp
ứng và phản hồi từ 5vgiác quan (RlGq) dựa trên việc đánh giá về khả năng tiếp cận
và cách thức sử dụng các loại vật dụng, dụng cụ thông qua quá trình hoạt động
hàng ngày, hoạt động chơi.
-
Bình diện thứ 3 đó chính là những vấn đề có liên
quan đến địa hạt ngôn ngữ (RlNn) như: phát âm, lặp lại, diễn tả...
-
Bình diện cuối cùng cần được đánh giá đó chính
là khả năng bộc lộ, thể hiện mong muốn,
ý thích xuất phát từ động cơ thúc đẩy từ nội tâm của trẻ – đòi hỏi bằng ngôn từ
thông qua lời nói hoặc hành vi thay vì ù lì, bị động chấp nhận tất cả những áp
đặt từ /môi trường xung quanh (RlYt).
22. Sau khi đánh giá mức độ phát triển của trẻ, là
việc xây dựng chiến lược can thiệp trẻ dựa trên kết quả từ quá trình chẩn đoán
và lượng giá thông qua test đánh giá mức độ phát triển, đồng thời là bảng thống
kê chi tiết ghi nhận những vấn đề mà hiện tại trẻ đang có như vấn đề về các
hành vi hung tính, sự thiếu vắng về ngôn ngữ. Hay sự thiếu vắng từ việc giao tiếp
bằng mắt, hoặc hạn chế trong việc sử dụng ngón trỏ để chỉ đồ vật…Một kế hoạch
được lượng giá cụ thể về khoảng thời gian dài với các mục đích dài hạn, bên cạnh
đó sẽ được chi tiết hóa bằng các chiến lược giúp trẻ cải thiện và phát triển
theo chiều hướng tích cực với các mục tiêu ngắn hạn gắn liền với các mốc phát
triển theo lứa tuổi. Các bài tập được thiết lập, với các kỹ thuật đặc trưng
trong một khuôn khổ làm việc chuyên nghiệp. Có sự kết hợp từ một ekip làm việc
chuyên nghiệp và kỹ năng mang tính chuyên môn như: Bác sĩ tâm thần nhi, chuyên
gia hoặc tâm lý, giáo viên chuyên ngành giáo dục đặc biệt, và sự hỗ trợ từ một
số lĩnh vực chuyên nghiệp khác như nhận viên công tác xã hội...
Bài viết được tham khảo từ nguồn tài liệu của GS. Nguyễn Văn Thành.
Bài viết được tham khảo từ nguồn tài liệu của GS. Nguyễn Văn Thành.