Chuyển đến nội dung chính

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỔNG QUAN VỀ TÂM THẦN HỌC PHẦN 1

Trong suốt quá trình sống, từ khi còn là một mầm sống được nâng niu và bảo bọc trong bụng mẹ cho đến lúc chào đời với tiếng khóc như báo hiệu “ba mẹ ơi…con đây này” cho đến lúc “trở về với cát bụi”. Một hành trình với biết bao những trải nghiệm, chính những trải nghiệm này đã cho mổi cá nhân “những bài học mang tính xương máu” cho chính mình. Trải nghiệm tích cực bao gồm những khoảnh khắc vở òa trong niềm vui và hạnh phúc, tự hào…nhưng dường như những trải nghiệm tiêu cực luôn có những tác động sâu sắc và không ít những người mang những “vết hằn” sâu thẳm nơi tâm hồn với những tổn thương đến từ những sự mất mát, đến từ sự thiếu thốn về tình cảm.
Một góc nhìn thực tế rằng, luôn tồn tại những áp lực từ mọi lĩnh vực trong cuộc sống như: phải chu toàn bổn phận làm cha – làm mẹ đối với con như thế nào với khái niệm “trọn vẹn” ? Ứng xử với các thành viên trong gia đình cho đến việc dung hòa nét văn hóa mang tính truyền thống của hai bên nội ngoại ? Làm gì để tạo nên sự gắn kết và yêu thương sâu sắc trong hôn nhân ? Đó là những áp lực từ môi trường gia đình, cho đến những áp lực trong học tập và công việc…tất cả những áp lực này có thể xảy một cách riêng rẻ trong một giai đoạn nào đó hoặc là cùng nhau kéo đến như là một hệ lụy các rắc rối từ môi trường sống. Cơ chế ứng phó và căn bằng của mổi cá nhân luôn được thử thách, luôn trong trạng thái “cập nhật”. Và những vấn đề kể trên đều đóng vai trò vô cùng quan trọng với những tác động đến sức khỏe tâm thần của con người.
Vậy khái niệm sức khỏe tâm thần được hiểu như thế nào ? Nguyên nhân dẫn đến những vấn đề sức khỏe tâm thần bao gồm những vấn đề gì ?  Những lý giải về sức khỏe tâm thần với góc nhìn tâm lý xã hội về các vấn đề tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần cũng như một số vấn đề cần lưu ý trong việc chăm sóc sức khỏe tâm thần một cách lành mạnh. Đây chính là những tiểu mục mà chúng tôi muốn đề cập trong bài viết này.

Đầu tiên, chúng ta sẽ hiểu như thế nào về khái niệm sức khỏe tâm thần ?
Theo WHO, sức khỏe tâm thần là một trạng thái không chỉ không có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái, cân bằng về cảm xúc, hòa hợp các mối quan hệ gia đình, xã hội; có cảm xúc, hành vi và ứng xử phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Tất cả mọi người đều có sức khỏe tâm thần. Sức khỏe tâm thần có thể hiểu một cách “ dân dã”, đó là cách mà chúng ta suy nghĩ, cảm giác và hành động khi đương đầu với những sự kiện/những vấn đề xuất phát từ cuộc sống – đó là những thăng trầm của cuộc đời mổi người. Sức khỏe tâm thần là một trong những yếu tố đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc quyết định cách chúng ta đối phó với sự căng thẳng và thay đổi trong cuộc sống cũng như đưa ra các lựa chọn và cân nhắc trong việc thiết lập, duy trì, phát triển các mối liên hệ với người khác.
Vậy những nguyên nhân nào dẫn đến những vấn đề về sức khỏe tâm thần ?
Đây là là chủ đề hot và có rất nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu và cũng như các mô hình thực nghiệm được triển khai tập trung vào những yếu tố nguy cơ. Những yếu tố này luôn có sự “gắn kết” tạo nên những tác động cộng hưởng làm tăng những nguy cơ dẫn đến các rối loạn tâm thần (RLTT).
      Mô hình di truyền tập trung vào các yếu tố di truyền ảnh hưởng như thế nào đến nguy cơ xuất hiện RLSKTT. Các yếu tố di truyền đã được xem xét trong một số bệnh khác nhau như tâm thần phân liệt (TTPL), bệnh Alzheimer và trầm cảm.
      Mô hình sinh học tập trung vào những quá trình hoá - sinh, đặc biệt là các chất dẫn truyền  thần kinh (DTTK), những chất trung gian của cảm xúc và hành vi. Mô hình này cũng nhằm lí giải mối liên quan giữa những tổn thương não và các rối loạn sức khỏe tâm thần (RLSKTT).
      Mô hình tâm lý tập trung vào những quá trính tâm lý có ảnh hưởng đến suy nghĩ cảm xúc và hành vi. Không giống với 2 mô hình được nêu ở trên , điều đặc biệt tạo nên sự đặc trưng mà mô hình tiếp cận về tâm lý đó chính là sử dụng các học thuyết về tâm lý nhằm lí giải về các tình trạng rối loạn sức khỏe tâm lý – tâm thần từ những trường phái nổi tiếng như: phân tâm và phân tâm hiện đại, nhân văn, hành vi và nhận thức hành vi, thân chủ trọng tâm, nhận thức…
      Tiếp cận văn hoá - xã hội tập trung vào vai trò các yếu tố văn hoá và xã hội trong các RLSKTT.
      Mô hình hệ thống tập trung vào các hệ thống xã hội thu hẹp, đó thường là gia đình. Ở đây rối loạn được xem như là hệ quả của “tắc nghẻn kênh giao tiếp”, sự “sai lệch” về vai trò, vị trí, chức năng của các thành viên kèm theo sự hỗ trợ và nâng đỡ kém hiệu quả của hệ thống gia đình được xem xét.
      Mô hình sinh – tâm – xã hội nhằm mục đích tích hợp các yếu tố khác nhau được kể trên vào một mô hình nguyên nhân tổng thể. Tiếp cận này cho rằng yếu tố di truyền hoặc các yếu tố sinh học khác có thể làm tăng thêm nguy cơ xuất hiện các RLSKTT. Tuy nhiên các rối loạn có xuất hiện hay không  còn phụ thuộc vào cường độ mà cá nhân  “đang có nguy cơ” đó tiếp xúc thế nào với những yếu tố gây stress gia đình và xã hội hoặc cách cá nhân đó đối phó và những nguồn hỗ trợ cá nhân đối phó với stress. Nặng nề hơn là các sự kiện mang tính tác động tiêu cực như: mất mát người thân, nạn nhân của tình trạng bạo lực kéo dài…

PHẦN TIẾP THEO...ĐƯỢC CẬP NHẬT VÀO NGÀY 15/08/2015


Popular Posts

LOW - SELF ESTEEM - CƠ CHẾ, VÀ PHƯƠNG THỨC HỖ TRỢ CAN THIỆP TÂM LÝ.

Hồ Chủ Tịch, một vị lãnh tụ vĩ đại đã từng nói rằng “ Ai cũng cần có lòng tự trọng và tự tin. Không có lòng tụ trọng, tự tin là người vô dụng”. Vậy lòng tự trọng đóng vai trò quan trọng như thế nào ? Sự tự tin có phải là yếu tố nhằm cũng cố lòng tự trọng của mổi cá nhân? Với xu thế xã hội ngày nay, áp lực luôn tồn tại ở mọi lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, chính trị…Cơ chế thích ứng tạo nên sự cân bằng giúp con người hình thành và phát triển những đáp trả các tác nhân kích thích từ môi trường bên ngoài ? Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu cơ chế này trở nên thiếu thích ứng vì những trải nghiệm tiêu cực về giá trị hình ảnh của bản thân ? Những yếu tố nào gây nên sự thấp kém/giảm sút về lòng tự trọng ? Làm sao để thoát khỏi tình trạng này ? Đó là những khía cạnh được chúng tôi lưu ý đến trong bài viết này. Đối với trẻ em, và trẻ vị thành niên đây là hai nhóm tuổi có nguy cơ cao nhất về vấn đề suy giảm/nhận thức kém cỏi về hình ảnh bản thân/lòng tự trọng bản thân trở nên thấp kém. ( Low

HÀNH TRÌNH CUỘC SỐNG

Ai cũng gặp phải những khoảng thời gian khó khăn,có thể bị xem thường, hiểu lầm và ghét bỏ. Trong cuộc đời, dù là ai đi nữa cũng phải trải qua những thăng trầm cuộc sống: tình cảm, rắc rối trong mối quan hệ xã hội, gia đình, công việc...Với những trải nghiệm đau thương có thể làm cho con người trở nên mạnh mẽ hơn hoặc ngược lại, hình thành nơi con người những kinh nghiệm ứng xữ - giao tiếp. Và quan trọng hơn là "con mắt nhìn đời"!

VÌ SAO CẦN PHẢI ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TRONG QUÁ TRÌNH CAN THIỆP CHO TRẺ CÓ NGUY CƠ HOẶC MẮC PHẢI RỐI LOẠN TỰ KỶ

Trước một trẻ có nguy cơ tự kỷ (chưa hội tụ đủ các tiêu chí chẩn đoán dựa trên bảng phân loại sức khỏe tâm thần hiện hành DSM-V hoặc ICD 10) hoặc trẻ mắc phải các vấn đề về Rối loạn phát triển. Điều đầu tiên mà chúng ta cần phải thực hiện đó là: -          Đánh giá mức độ phát triển hiện tại mà bản thân trẻ đang có: trẻ có thể làm được gì ? Chưa làm được gì ? Điều gì mà bản thân trẻ có khả năng thực hiện trong tương lai cho đù đó là do bản thân trẻ hoặc được sự hỗ trợ từ người khác ? Những điều mà trẻ muốn làm ?... -          Dựa trên những khởi điểm từ bước một, chúng ta xây dựng một kế hoạch can thiệp dài hạn cũng những việc xây dựng một khung các nục tiêu can thiệp ngắn hạn một cách cụ thể. Đồng thời việc tư vấn và đồng hành cùng phụ huynh (thông báo về tình trạng và thông tin khoa học về tình trạng mà trẻ mắc phải, hướng phụ huynh của trẻ tiếp cận đến hệ thống hỗ trợ cho trẻ nếu có, cùng thảo luận về các phương thức can thiệp – trị liệu cho trẻ nhằm giúp phụ huynh hiểu - c