Ứng phó là những
hành động thuộc về nhận thức và hành vi nhằm chế ngự những đòi hỏi của một sự
kiện được nhận định là có tính gây stress. Khi đối đầu với một sự kiện gây
stress, đương sự sẽ cố gắng “hóa giải” sự nguy hại và phòng tránh sự đe dọa. Vẫn
còn có ít dữ liệu về việc làm thế nào mà đương sự ứng phó được với các tác nhân
gây stress trong môi trường sống tự nhiên. Sự biến hóa của các chiến lược ứng
phó là vô hạn.
Có hai đích
điểm chính của sự ứng phó: tự thay đổi bản thân mình (changing ourselves) hoặc
thay đổi môi trường xung quanh (changing the environment). Đương sự có thể lựa
chọn hoặc thích nghi để phù hợp tốt hơn với môi trường (“gió chiều nào theo chiều
đó”) hoặc thay đổi môi trường để thích hợp với nhu cầu bản thân của mình (phân
hóa và chế ngự)1. Ví dụ, nhà hàng xóm của bạn tổ chức một bữa tiệc ồn ào làm
phá giấc ngủ của bạn. Bạn có thể chọn cách tham gia vào bữa tiệc (tự thay đổi)
hoặc gọi cảnh sát (thay đổi môi trường). Những cố gắng ứng phó có thể hoặc định
hướng theo cảm xúc (emotion-oriented) hoặc định hướng theo vấn đề
(problem-oriented). Sự ứng phó định hướng cảm xúc nhắm vào việc giảm bớt sự khuấy
động cảm xúc gây nên bởi stress. Sự ứng phó định hướng vấn đề nhắm vào việc
thay đổi sự kiện được xem là có hại. Cả hai hướng ứng phó có thể được thực hiện
đồng thời, hoặc riêng biệt, và cũng có khi là không tương hợp với nhau. Trong hầu
hết các tình huống gây stress, các cố gắng ứng phó đều tập trung vào cả hai hướng
(Folkman, Lazarus, 1980). Hãy hình dung rằng bạn đang rất căng thẳng về kỳ thi
giữa niên khóa được tổ chức vào tuần tới. Việc ứng phó định hướng vấn đề là làm
sao tập trung vào việc học. Ứng phó định hướng cảm xúc có thể dùng thuốc để giải
bớt lo âu. Dường như việc ứng phó định hướng vấn đề được ưa chuộng hơn vì nó giải
quyết được “gốc rễ” của vấn đề; nhưng ứng phó định hướng cảm xúc cũng rất quan
trọng. Cảm xúc thường là khổ sở và lo lắng, và có hậu quả bắt nguồn từ stress.
Sự khuấy động cảm xúc cũng có thể can thiệp vào các cố gắng về nhận thức và hành
vi của đương sự khi ứng phó với vấn đề. Trong vài trường hợp (như thiên tai hoặc
bị thương tật), ít có khả năng để chúng ta làm được điều gì nhằm giải quyết vấn
đề; việc cơ bản là ứng phó với tình trạng khuấy động cảm xúc được khơi lên từ
các sự kiện ấy. Các chiến lược ứng phó có ba hình thức:
Chiến lược ứng phó về nhận thức (cognitive coping strategy)
Chiến lược ứng phó về nhận thức (cognitive coping strategy)
Chúng ta có
thể ứng phó với những tác nhân gây stress hoặc với cảm xúc của chính mình bằng
cách giải quyết vấn đề, tự nói chuyện (self-talk) và tái nhận định
(reappraisal). Giải quyết vấn đề bao gồm việc phân tích tình huống để đề ra những
hành động khả thi, đánh giá những hành động đó và lựa chọn kế hoạch hành động hữu
hiệu (Janis, Mann, 1977). Ví dụ, với kỳ thi giữa niên khóa, việc giải quyết vấn
đề có thể gồm làm sao để giảm bớt lo âu (định hướng cảm xúc, đích là bản thân)
(emotion-oriented, sefl as target); học thế nào để được điểm cao (định hướng vấn
đề, đích là bản thân) (problem-oriented, sefl as target); vào học lớp nào để bớt
lo (định hướng cảm xúc, đích là môi trường) (emotion-oriented, environment as
target); và làm sao tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè để cùng học (định hướng vấn
đề, đích là môi trường) (problem-oriented, environment as target).
Tự nói chuyện
một mình ngụ ý chỉ những câu nói hoặc ý nghĩ thầm kín được dùng để hướng dẫn những
cố gắng của chúng ta vào việc ứng phó với sự kiện gây stress cùng những khuấy động
cảm xúc kèm theo nó. “Lời nói bên trong” ấy hướng sự chú tâm đến những kích
thích thích đáng, tạo điều kiện cho việc hình thành và thực hiện các chiến lược
ứng phó và cung cấp một sự phản hồi chính xác. Tưởng tượng bạn đang ngồi trên
chiếc ghế của một nha sĩ, chờ làm răng. Bạn có thể tự nhủ “Vị nha sĩ là người
thận trọng; ông sẽ chăm sóc chứ không làm đau mình đâu” (định hướng cảm xúc,
đích là môi trường); hoặc “Mình căng thẳng quá, cần thở sâu để thư giãn” (định
hướng cảm xúc, đích là bản thân); “Nhìn những hình vẽ trên trần nhà kia có lẽ dễ
chịu hơn” (định hướng vấn đề, đích là môi trường); hoặc “Mình cần phải đương đầu
với nó đây” (định hướng vấn đề, đích là bản thân).
Tái nhận định
gồm việc giảm bớt tác động của sự kiện bằng cách thay đổi cách diễn giải sự kiện.
Nói cách khác, sự kiện sẽ được gán cho một ý nghĩa khác. Một thí sinh thi hỏng
có thể nghĩ rằng “Bài thi này thật khó quá sức” (định hướng vấn đề, đích là môi
trường), hoặc “Hôm nay xui thật” (định hướng vấn đề, đích là bản thân). Sự tức
giận này có thể được nhận định lại bằng cách nghĩ rằng “Ông thầy thật đáng
ghét, mình có quyền tức giận được chứ” (định hướng cảm xúc, đích là môi trường)
hoặc “Chẳng đáng gì, khóa học này dù sao cũng không quan trọng” (định hướng cảm
xúc, đích là bản thân).
Chiến lược ứng
phó về hành vi (behavioral coping strategy)
Đương sự cũng
phải ứng phó với stress bằng hành vi. Nói chung, có bốn loại đáp ứng với stress
bằng hành vi: tìm kiếm thông tin, hành động trực tiếp, kiềm chế hành động và
quay sang người khác.
Tìm kiếm
thông tin (seeking information) là thâu thập dữ liệu về bản chất của tác nhân
gây stress và về các chiến lược ứng phó khả thi. Một người khi biết mình bị ung
thư có thể tìm kiếm thông tin về tiên lượng của bệnh này thông qua một nhân
viên y tế (Haan, 1977). Người đó có thể dựa vào sự thay đổi kích thước của khối
u có thể sờ nắn được để đánh giá hiệu quả của điều trị (Norenz, Leventhal,
Love, 1982). Thông tin vì thế sẽ giúp ích cho các chiến lược ứng phó và tăng cường
cảm giác về khả năng kiểm soát và tiên đoán sự kiện.
Hành động trực
tiếp (direct action) là công khai các đáp ứng bằng lời nói hoặc hành động nhằm
làm thay đổi tác nhân gây stress hoặc các khuấy động cảm xúc liên quan đến
stress. Một người bị bong gân cổ chân có thể nghỉ ngơi, dùng thuốc giảm đau hoặc
đến bác sĩ khám. Một người vừa bị mất đi người mà mình thương yêu có thể tự
“chôn” mình trong công việc, hoặc xem những bức hình cũ của người quá cố cho
vơi bớt nỗi buồn.
Kiềm chế hành
động (inhibiting action) là không làm một điều gì đó nhằm làm giảm bớt stress
và các khuấy động cảm xúc. Một người bị ho kinh niên có thể ngưng hút thuốc lá.
Tránh các tình huống tạo nên lo âu cũng thích hợp với loại đáp ứng này. Ví dụ,
đương sự thường hay “quên” các cuộc hẹn với nhân viên y tế vì bị đau hoặc bị
ngượng ngùng khi được khám bệnh. Loại ứng phó sau cùng về hành vi - quay sang
người khác (turning to others) - theo truyền thống thường được gọi là sự hỗ trợ
xã hội (social support).
Hỗ trợ xã hội
(Social support)
Cụm từ “quay
sang người khác” được dùng ở đây vì nó nhấn mạnh vào bản chất tích cực và tương
hỗ của chiến lược ứng phó này. Mối tương quan giữa bản thân chúng ta và những
người khác tạo nên nguồn lực quan trọng để ứng phó với stress. Chúng ta có thể
nhận được sự hỗ trợ vật chất, tinh thần và thông tin từ những người khác. Hỗ trợ
vật chất gồm tiền bạc, hàng hóa và các dịch vụ sẵn có từ những người khác
(Cohen, McKay, 1984). Hỗ trợ tinh thần là khi cảm thấy mình được người khác yêu
thương, đánh giá cao và có cơ hội để trao đổi những cảm giác ấy (Cobb, 1976). Hỗ
trợ thông tin là khi được người khác cho ý kiến về ý nghĩa của những sự kiện
gây stress, hoặc cho lời khuyên về những chiến lược ứng phó và cung cấp một phản
hồi về tính đúng đắn của các cố gắng ứng phó này (Cohen, McKay, 1984).
Hỗ trợ xã hội
có thể điều chỉnh stress bằng hai cách. Đầu tiên, một sự hỗ trợ như thế có thể
phòng ngừa được stress. Biết được những người khác sẽ chăm sóc và giúp đỡ mình
là một cách để phòng ngừa stress vì các sự kiện khi ấy sẽ được xem là ít có
tính đe dọa (Singer, Lord, 1984). Việc thiếu sự hỗ trợ xã hội có liên quan đến
tình trạng sức khỏe kém. Ví dụ Berkman và Syme (1979) đã thấy rằng hỗ trợ xã hội
là một yếu tố tiên lượng khiêm tốn nhưng rất quan trọng về tình trạng tử vong,
ngay cả khi tình trạng sức khỏe ban đầu, các hành vi gây tổn hại sức khỏe và
tình trạng xã hội đã được kiểm soát. Những ai ít có những mối quan hệ xã hội
thường có tỷ lệ tử vong cao hơn.
Hỗ trợ xã hội
cũng có thể làm giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực của stress khi nó đã xuất hiện.
Ví dụ, hỗ trợ xã hội có liên quan đến thời gian sống còn được kéo dài hơn ở những
bệnh nhân ung thư (Weisman, Worden, 1975). Một số lớn vấn đề được báo cáo ở những
bệnh nhân là các vấn đề về giao tiếp. Chúng bao gồm sự khó giao tiếp với người
khác về bệnh ung thư, nói chuyện với những thành viên trong gia đình về tương
lai và việc thu thập thông tin từ những nhân viên y tế (Wortman, Dunken-Schetter,
1979). Nhân viên y tế, gia đình và bạn bè có thể giúp bệnh nhân ung thư làm rõ
vấn đề và đoan chắc điều gì sẽ xảy đến với họ, biểu hiện tình yêu thương, sự
chăm sóc, và cùng nhau phát triển những chiến lược ứng phó với các nhu cầu về
thể chất và tinh thần của bệnh ung thư cùng việc điều trị bệnh này. Hỗ trợ xã hội
cũng kích thích sự lành bệnh bằng cách thúc đẩy người bệnh gắn bó hơn với việc
điều trị (Suls, 1982).
Những yếu tố
xác định nên chiến lược ứng phó
Một số lớn
chiến lược ứng phó có thể được áp dụng để đáp ứng với stress. Việc chọn lựa chiến
lược chịu ảnh hưởng bởi các thông số thuộc về bản thân đương sự cũng như các
thông số thuộc về tình huống. Những thông số cá nhân như giá trị (value) và niềm
tin (belief) sẽ làm phát sinh hoặc loại bỏ một số cách thức hành động và ảnh hưởng
đến cách thức của đương sự ứng phó như thế nào với tác nhân gây stress. Một kiểu
cách đáp ứng cũng phải có sẵn trong “vốn sống” của đương sự trước khi nó có thể
được sử dụng để ứng phó với các tác nhân gây stress. Ly hôn là một giải pháp hợp
lý để giải quyết mâu thuẫn vợ chồng (trong những tình huống không thể hòa giải),
nhưng nó lại là điều không thể chấp nhận được ở những ai có niềm tin rằng ly
hôn là có tội. Một đáp ứng quyết đoán dường như là cách chọn lựa hợp lý để ứng
phó với những kẻ không biết điều, nhưng có nhiều người đã không biết cách biểu
lộ những cảm giác và ý kiến của mình một cách trực tiếp và mạnh mẽ như thế. Tóm
lại, các kiểu hành động ứng phó phải “có sẵn” nơi đương sự và được đương sự chấp
nhận.
Tình huống xảy
ra tác nhân gây stress cũng có thể ảnh hưởng đến phương thức mà đương sự áp dụng
để ứng phó. Hiển nhiên rằng, tác nhân gây stress tự nó có thể thúc đẩy tính khả
dụng và hiệu quả của các chiến lược ứng phó. Nỗi mất mát từ cái chết của một người
mà mình thương yêu chủ yếu đòi hỏi một hình thức ứng phó định hướng cảm xúc, bởi
không thể nào làm người chết sống lại. Nội dung của tác nhân gây stress cũng
thúc đẩy sự ứng phó. Hậu quả không hay sẽ xảy ra nếu một người nào đó đánh ông
chủ của mình vì những yêu cầu làm việc không hợp lý. Những cố gắng ứng phó do vậy
thường phải làm sao phù hợp với những áp lực và đòi hỏi của môi trường.