ThS.
Lý Minh Tiên
DÀN BÀI:
1.
IQ là gì?
2.
Phương pháp đo IQ. - Một chút bàn luận. - Công thức
tính IQ.
- Minh họa các câu test đo IQ.
3.
Những điều nói thêm về IQ.
4. Giới
thiệu trang web để tự kiểm tra IQ.
-------------
IQ LÀ GÌ?
IQ là ký hiệu lấy
hai chữ cái đầu của từ tiếng Anh là “Intelligence Quotient”, thường dịch là thương
số trí tuệ hay còn gọi là chỉ số thông minh. Chỉ số này của mỗi người nói lên năng
lực trí tuệ của người đó. Ta có thể hình dung khả năng đó qua câu chuyện sau đây:
Edidon cần tính
dung tích một bóng đèn hình quả lê, ông giao nhiệm vụ đó cho trợ lý Chapton (tốt
nghiệp đại học y khoa Toán). Hơn một tiếng đồng hồ, Chapton loay hoay mãi với
các công thức dày đặc mà vẫn chưa tính ra. Edidon đi qua, nói: “Có gì phức tạp
lắm đâu!”. Ông mang chiếc bóng đèn ra vòi, hứng đầy nước và nói với Chapton:
“Anh đổ nước vào ống đó, xem dung tích là bao nhiêu. Đó là dung tích của bóng đèn”.
Từ câu chuyện
trên ta thấy người thông minh là người có khả năng vượt trội về mặt trí tuệ so
với nhiều người khác. Việt Nam cũng có nhiều câu chuyện về người thông minh và
có lẽ chỉ số IQ không hề xa lạ với nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những người
làm công tác y tế và giáo dục. Về khái niệm, hầu hết mọi người đều có được ý niệm
trực giác về trí thông minh. Có nhiều từ dùng để chỉ những khác biệt về mức độ
thông minh: sáng dạ, lanh lợi, thông minh, tài tình, khôn ngoan, láu lỉnh, chậm
hiểu, tối dạ, ngu đần, đần độn v.v…Mấy năm gần đây, một số chương trình quảng
cáo trên truyền hình về thực phẩm cũng thường nhắc đến chỉ số IQ, đến quan hệ
giữa thông minh và trí não. Điểm cần nhấn mạnh trước tiên là chỉ số IQ không phải
bất biến. Ngoài yếu tố dinh dưỡng hợp lý, tùy thuộc hoàn cảnh giáo dục, môi trường
giao tiếp và môi trường văn hóa cộng với sự năng động của cá nhân, chỉ số IQ có
thể thay đổi sau một thời gian.
PHƯƠNG PHÁP ĐO IQ
Một chút bàn luận:
Bằng
quan sát trong đời sống ta thấy, trí thông minh thể hiện ở “sự nhanh nhẹn, linh
hoạt” trong nhận thức, ở khả năng “sớm hiểu sớm biết” so với người cùng lứa tuổi,
là “khả năng vượt trội” về trí tuệ. Cũng có người nói đến sức bật nhận thức, sức
chú ý, độ tập trung, khả năng quan sát v.v… Trong câu chuyện về Edison, chính
phản ứng nhanh nhạy của Edison mới bộc lộ trí thông minh của ông. Vì vậy, quan
niệm cần nắm rõ khi đo IQ chính là đo sức hiểu biết chứ không phải là đo vốn hiểu
biết rộng hay hẹp. IQ có liên quan đến quá trình học tập, kết quả học tập, nhưng
đo IQ phải hướng đến đo khả năng nhận thức (khả năng theo học, khả năng làm việc
bằng trí não, khả năng trí nhớ). Điều này khác xa với các bài do thành quả học
tập. Như vậy, một đứa trẻ nhỏ cũng có thể đạt IQ ngang với một học sinh lớn, học
bậc trung học phổ thông. Tin tức sua đây cho thấy điều vừa nói:
Báo Thanh niên
ngày 16/2/2005 đưa tin cậu bé Mikhail Ali mới 3 tuổi (đến từ Bramley, Leeds) đã
vượt qua kỳ thi thẩm định chỉ số IQ tổ chức tại ĐH York, Anh quốc. Em đã thực
hiện xong hàng loạt bài thi bao gồm toán, tranh ảnh, các câu hỏi khó về logic
và dãy số do hiệp hội Mensa đưa ra, đạt 137 điểm và trở thành thành viên nhỏ tuổi
nhất đỗ kỳ thi của tổ chức này. Em bé được xác định là có tài năng bẩm sinh,
làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng cũng vẫn còn là một cậu con trai bé bỏng, ăn
nhiều và chơi với những đồ chơi hằng ngày.
Để có phương pháp
đo IQ một cách khoa học, ta cần tìm hiểu định nghĩa thuật ngữ “trí thông minh”.
Bởi đây là một khái niệm quan trọng làm cơ sở lý luận cho việc đo lường. Năm
1921, một tạp chí nghiên cứu hỏi 14 nhà tâm lý học và giáo dục học nổi tiếng về
định nghĩa trí thông minh. Kết quả nhận được 14 định nghĩa, trong số đó các
chuyên gia nhấn mạnh đến “khả năng học tập từ kinh nghiệm” và “khả năng đáp ứng
với môi trường”. Năm 1986, những nhà nghiên cứu lập lại câu hỏi định nghĩa trí
thông minh với 25 chuyên gia. Kết quả thu được là nhiều định nghĩa khác nhau,
liên quan đến: (1) khả năng đáp ứng tổng quát với một vấn đề mới trong cuộc sống;
(2) năng lực để tham gia vào việc tư duy trừu tượng, sự điều chỉnh đối với môi
trường; (3) khả năng về tri thức và sở hữu tri thức; (4) khả năng tổng quát về
tính độc lập, tính sáng tạo và hiệu quả trong khi suy nghĩ; (5) khả năng để thu
nhận được khả năng; (6) sự nắm bắt các mối quan hệ có liên quan; (7) khả năng để
đoán xét, để hiểu được ý nghĩa và để lập luận; (8) suy diễn các mối quan hệ;
(9) năng lực nhận thức chung, bẩm sinh.
Định nghĩa được
nhiều nhà nghiên cứu đề nghị là coi trí thông minh như một nhóm khả năng được
biểu hiện và đánh giá qua điểm số mà những trắc nghiệm trí tuệ đo được. Định
nghĩa là thuận lợi cho việc nghiên cứu có liên quan đến một thuật ngữ rất trừu
tượng là “trí thông minh”,mở ra hướng đo đạc, lượng hóa các khả năng trí tuệ,
những từ đó cũng nổi lên một số vấn đề. Bởi vì hiện nay có nhiều trắc nghiệm
khác nhau, các trắc nghiệm không đo lường cùng một cái gì như nhau. Bên cạnh
các trắc nghiệm phi ngôn ngữ có thể dùng chung cho nhiều quốc gia, nhiều dân tộc
khác nhau, những trắc nghiệm có sử dụng ngôn ngữ đều chịu ảnh hưởng khá mạnh
vào một nền văn hóa. Mặt khác, khi xây dựng trắc nghiệm thường người ta phải hướng
đến mục đích của việc đo lường, nghĩa là phải phân tích lý luận về cái cấu
thành nên trí thông minh. Về điểm này thường có các quan niệm khác nhau:
-
Nhà tâm lý học người Pháp, A.Binet cho rằng trong cấu
trúc trí tuệ có những năng lực như: chú ý, tưởng tượng, phán đoán và suy lý.
-
Nhà bác học người Anh, C. Spearman (1863 – 1945) qua
nghiên cứu nhiều trắc nghiệm dựa trên phương pháp toán học, đã kết luận rằng có
một nhân tố chung ảnh hưởng đến tất cả các trắc nghiệm được nghiên cứu. Bên cạnh
đó ông còn chỉ ra những nhân tố riêng, chỉ tồn tại đối với mỗi trắc nghiệm.
Quan niệm của Spearman đã được đưa vào trong tâm lý học, như là thuyết hai nhân
tố (factors) của trí thông minh, đó là nhân tố G (general) và S (special).
-
Nhà tâm lý học người Mỹ, L.L.Thurstone (1887 – 1955) đưa
ra phương pháp phân tích đa nhân tố (1947). Ông cho rằng trí thông minh gồm 7
nhân tố:
V =
sữ lĩnh hội ngôn từ (vebal comprehension).
W = hoạt bát
ngôn ngữ (word fluency)
N = khả năng vận dụng tài liệu chữ số (Number).
S = năng lực
không gian (space) M = trí nhớ )memory).
P = tri giác (perceptual).
R = khả năng suy luận (reasoning).
-
J.P.Guilford cho trí tuệ gồm 120 năng lực, chia làm 3 mặt:
tiến trình, chất liệu, kết quả.
-
Gần đây, qua kết quả nghiên cứu, các nhà tâm lý học
Trung Quốc cho rằng trí thông minh bao gồm khả năng quan sát, khả năng của trí
nhớ, sức suy nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ năng thực hành và sáng tạo.
-
Qua phân tích hệ thống các trắc nghiệm rí tuệ đang được
sử dụng, có thể thấy những thành phần thường được nhắc đến như: kiến thức tổng
quát, suy luận ngôn ngữ, suy luận trừu tượng, tính toán số học, hình học, tri
giác không gian, trí nhớ ngắn hạn, từ vựng, logic, tốc độ tính toán v.v…
Còn nhiều nhà
khoa học khác nữa, với những quan điểm và giải thích khác nhau về vấn đề trí
thông minh, nhưng cuối cùng đều có chung một nhận định: Trí thông minh không phải
là một năng lực đơn độc, nó là sức mạnh tổng hợp của nhiều loại năng lực. Trí
thông minh chính là sự phối hợp tốt các năng lực đó để làm thành một kết cấu hữu
hiệu. Các nhóm năng lực này cần được phát huy một cách đồng bộ, cân đối, đầy đủ
theo hướng nâng cao dần. Nếu một thành phần không được phát triển sẽ ảnh hưởng đến
sự vận hành của hệ thống.
Công thức tính IQ:
Để tính toán chỉ số IQ, công thức ban đầu được lập nên là:
IQ = MA x 100
CA
Trong đó: MA (Mental Age) là tuổi
trí tuệ, tính bằng tháng, quy từ điểm trắc nghiệm.
CA (Chronological
Age) là tuổi thực tế tính bằng tháng, theo thời gian sinh trưởng của mỗi người).
Thí dụ: Một nhi đồng
tuổi đời tròn 8 năm, khi làm một test trí tuệ đạt được tuổi trí khôn tương đương
trẻ em 10 tuổi, chỉ số thông minh của em bé này là:
IQ = 10 x 12 x 100 = 125
8 x 12
Tuy nhiên, cách
tính này đã bộc lộ nhược điểm là không đại diện được cho mọi lứa tuổi và mọi
hình thái trí tuệ phức tạp của con người. Về sau, nhiều cách tính khác được đề
nghị. Như Wechsler trong các trắc nghiệm trí tuệ dùng cho trẻ em và cho người lớn
đã sử dụng điểm IQ chuyển hóa. Đây là loại điểm IQ chuyển đổi từ điểm số bài trắc
nghiệm của một người sang loại thang đo tiêu chuẩn, dựa trên lý thuyết cho rằng
những điểm số trắc nghiệm của một dân số người được phân bố bình thường, và
thang này có điểm trung bình = 100 độ lệch tiêu chuẩn = 15. Công thức tính:
IQ = 100 + 15 Z
Z là điểm biến đổi từ điểm số
bài trắc nghiệm theo công thức Z = X
- µ , trong đó µ và σ
σ
lần lượt là điểm trung bình và độ lệch tiêu
chuẩn các bài làm của nhóm đông người chọn làm đại diện cho dân số.
Thí dụ: Khảo sát bằng test RAVEN (60 câu hỏi)
trên một nhóm khoảng 2000 học sinh đại diện cho các học sinh lớp 8 TPHCM thu được
điểm trung bình µ = 35,5 độ lệch tiêu chuẩn σ = 11,4. Học sinh Tuấn, lớp 8 làm
bài test này đạt 48 điểm. Vậy IQ của Tuấn là bao nhiêu?
Giải: Đổi điểm của Tuấn ra Z =
(48 – 35.5)/11.4 – 1.096 Suy ra IQ = 100 + 15 x 1.096 = 116
Dưới đây là bảng
giải thích ý nghĩa từng nhóm điểm IQ và biểu diễn bằng đồ thị (các vùng dưới đường
cong bình thường tính trên dân số rất lớn):
Bảng 1. Giải thích các loại IQ
Khoảng điểm IQ
|
Mô tả ý nghĩa
|
Tỷ lệ % trong dân số
|
40 – 55
|
Rất kém
|
0.13%
|
55 – 70
|
Chậm phát triển tâm thần
|
2,14%
|
70 – 85
|
Kém thông minh
|
13,59%
|
85 – 115
|
Trí tuệ bình thường
|
68,26%
|
115 – 130
|
Thông minh
|
13,59%
|
130 – 145
|
Trí thông minh cao (có tài)
|
2,14%
|
145 – 160
|
Thiên tài
|
0,13%
|
Minh họa một số câu trắc nghiệm đo IQ:
Để giúp độc giả nắm
được các ý tưởng và cách thức soạn các câu trắc nghiệm đo trí tuệ, hãy xem xét
câu trắc nghiệm loại Đúng – Sai sau đây:
“Hai con gà và 4 con chó có tất cả 22
chân” Đúng
Sai
Câu hỏi không khó nhưng về khía cạnh trí tuệ,
để xác định câu này là đúng hay sai, người trả lời cần sử dụng nhiều kỹ năng
khác nhau:
1.
Có kiến thức tổng quát về cơ thể các con gà và chó.
2.
Hiểu các quy tắc số học đẻ nhân 2 với 2, 4 với 4 và cộng
16 với 4.
3.
Hiểu về phương tiện đại số rằng một đơn vị “gà” bằng
hai đơn vị “chân”, một đơn vị “chó” bằng bốn đơn vị “chân”.
4.
Phải đối chiếu tổng các chân con vật với con số hai mươi
hai, theo cách hợp logic.
5.
Phải lưu giữ các tổng từng phần trong trí nhớ ngắn hạn để
thuận tiện cho việc so sánh các tổng.
6.
Sử dụng nhận thức bằng thị giác để có hình ảnh các con
vật trong óc nhằm lượng giá dễ dàng hơn các thao tác tính toán số học.
7.
Vốn từ vựng phải sử dụng để hiểu ý nghĩa các từ trong
bài toán.
8.
Nếu một số từ viết (hoặc đọc) sai chính tả, bài toán sẽ
đổi khác so với bài toán đã cho, hoặc lỗi khi in ấn cũng làm sai lệch dữ kiện
bài toán.
9.
Cần sử dụng tất cả kỹ năng trên trong một khoảng thời
gian rất ngắn và tốc độ tính toán cần phải đủ nhanh để cho ra một lời giải được
xác định trong khoảng thời gian được phép.
10. Khả năng trực
giác cần được sử dụng để cảm nhận chung về câu phát biểu. Trực giác này dùng để
duyệt qua, xem xét sự chơi chữ, ý nghĩa kép trong ngữ cảnh, hay các khía cạnh bị
làm sai lạc.
Nào, bây giờ bạn hãy thử hoàn
thành 3 câu hỏi ngay dưới đây. Làm trong 60 giây
1. 2
con vịt và 2 con chó có tổng số chân là 14 Đúng Sai
2.
Một cái bánh có thể cắt thành hơn 7 miếng chỉ với 4
nhát cắt theo đường thẳng xuyên qua tâm cái bánh. Đúng Sai
3. Hai
trong các số sau đây có tổng đến 13.
1, 6, 3, 5, 11
Đúng Sai
Đáp án: Câu 1: Sai; Câu 2: Đúng; Câu 3: Sai
Dựa trên ý nghĩa vừa trình bày, mỗi câu trắc
nghiệm IQ được soạn theo nhiều hình thức khác nhau phục vụ cho một ý đồ riêng,
nhằm đo lường một cái gì đó của trí tuệ. Như đã trình bày trong phần lý luận
trên, quan niệm trí thông minh là sự phối hợp của nhiều thành tố giúp cho việc
xây dựng bài trắc nghiệm thành dễ dàng hơn. Các câu hỏi sẽ hướng vào đo lường
các kỹ năng trong từng thành tố. Ví dụ:
Ngôn ngữ
Toán học
Tri giác không gian
Suy luận logic
Nhận biết các mẫu Phân loại v.v…
Dưới dây là vài câu ví dụ:
Đo khả năng ngôn ngữ.
1. Tìm
từ trái nghĩa:
-
thuần Việt: Ví dụ: cho từ “Cứng”, trả lời “Mềm, “Ngày →
“Đêm”, “Dài” →
“Ngắn”
-
Hán Việt: Ví dụ: “Thượng” → “Hạ”, “Nhập” → “Xuất”
2. Phân
tách từ kép Hán - Việt:
Ví dụ: Tiếp thị →
tiếp cận thị trường; Quốc sách → chính sách quốc gia.
3. Đổi
trật tự từ, lập câu mới:
Với 5 từ trong câu KHÔNG BẢO, SAO NÓ ĐẾN?,
lập các câu mới:
- Sao
không bảo nó đến?
- Bảo
nó đến, không sao?
- Nó
bảo, sao không đến?
- Nó
đến, sao không bảo?
4. Ghép
thêm từ đơn, tạo từ đôi có nghĩa:
Cho từ “Học”. Ghép được: Học hành,
học thuật, học giả, học sinh.
Đo khả năng nhận ra các khuôn mẫu, luận lý
và trí thông minh toán học.
Câu ví dụ 1. Con số nào sẽ đứng
kế tiếp trong dãy số sau?
1, 4, 9,
16, 25
Nhận xét: Dãy số tăng theo cách
+ 3, + 5, + 7, + 9, + 11, nên đáp số = 36.
Câu ví dụ 2. Con số nào sẽ đứng
kế tiếp trong dãy số sau?
3, 5, 8,
13, 21.
Nhận xét: Vì trật
tự các số trong dãy tuân theo quy tắc: số kế tiếp là tổng hai số đứng liền trứơc
nó. Như 3 + 5 = 8, 5 + 8 = 13, 8 + 13 = 21. Suy ra đáp số là 34 (vì 13 + 21 =
34).
Đo khả năng xếp loại và trí thông minh toán
học.
Câu ví dụ: Con số nào không thuộc
cùng nhóm?
Đáp án = 17 (vì là số lẻ duy nhất).
4
|
32
|
144
|
17
|
28
|
122
|
18
|
64
|
188
|
322
|
14
|
202
|
Kiểm
tra trí thông minh toán học, logic và ngôn từ.
Câu ví dụ: Chữ cái trong ô cuối
là gì ?
E
|
C
|
O
|
B
|
A
|
B
|
G
|
B
|
N
|
D
|
B
|
?
|
Đáp án = H
Lời giải: Chuyển đổi
mỗi chữ cái thành con số ở vị trí tương đương với nó trong bảng cữ cái (tiếng Anh), ví dụ chữ C thành số 3. Sau đó,
tại mỗi hàng, nhân hai số trong hai cột đầu để tính ra chữ cái tương ứng tại cột
thứ ba.
Kiểm tra khả
năng nhận ra mẫu hình (pattern) và khả năng về thị giác. Câu ví dụ: Chọn một
hình kế tiếp hợp lý từ trong 6 hình cho bên dưới.
Giải thích quy luật:
Cả khối hình di chuyển theo chiều kim đồng hồ và hình vuông chuyển động ngược
chiều kim đồng hồ trong khi tự xoay 45 độ quanh nó. Một nửa của đường thẳng di
chuyển 90 độ theo chiều kim đồng hồ, trong khi nửa còn lại di chuyển 45 độ ngược
chiều kim đồng hồ. Đáp án là hình E.
Đo năng lực tri giác không gian
Kiểm tra khả năng phân loại và tri giác
không gian.
Câu ví dụ: Hình nào khác với những
hình còn lại?
Đáp án = A
NHỮNG ĐIỀU CẦN NÓI THÊM VỀ IQ
Dưới đây xin dẫn lại hai bài viết gần đây liên quan đến chỉ số IQ. Những thông tin mói này là rất cần thiết. Nó giúp ta có cái nhìn đầy đủ hơn về chỉ số IQ. Nội dung trong hai bài này là kết quả của những nghiên cứu khoa học, đặc biệt ở bài 2, cho thấy tính chất hạn chế của việc chỉ dùng IQ khi đánh giá thông minh. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có ý thức bổ sung những điểm còn hạn chế.
Dưới đây xin dẫn lại hai bài viết gần đây liên quan đến chỉ số IQ. Những thông tin mói này là rất cần thiết. Nó giúp ta có cái nhìn đầy đủ hơn về chỉ số IQ. Nội dung trong hai bài này là kết quả của những nghiên cứu khoa học, đặc biệt ở bài 2, cho thấy tính chất hạn chế của việc chỉ dùng IQ khi đánh giá thông minh. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có ý thức bổ sung những điểm còn hạn chế.
Bài I (báo Thanh Niên, 05/03/2005).
Những điều chưa biết về IQ
Mọi người thường
nhắc tới chỉ số thông minh IQ nhưng còn nhiều điều khiến bạn phải ngạc nhiên về
nó. Bạn có thể tham khảo qua kết quả của các nhà nghiên cứu Mỹ.
1. Trường học ảnh hưởng tới IQ:
Sự thông minh nói
chung không ảnh hưởng tới quyết định đến trường hay không nhưng việc đến trường
học giúp học sinh tăng chỉ số IQ của mình. Càng nghỉ học sớm thì nguy cơ thua
kém về IQ so với các bạn cùng trang lứa càng tăng.
Theo kết quả khảo
sát em có IQ thấp của Tổ chức giáo dục mở rộng của London, IQ của các em giảm dần
theo các nhóm tuổi từ bé đến lớn: nhóm 4 – 6 tuổi có IQ = 90, nhóm tuổi lớn nhất
12 – 20 tuổi là 60.
-
Nghiên cứu tại Nam Phi và Mỹ cho thấy mỗi năm trì hoãn đi
học, IQ của trẻ giảm 5 điểm.
-
IQ chịu ảnh hưởng của thời gian đi học. Cuộc điều tra ở
Mỹ với những người ở lại trừơng lâu hơn tránh đi lính và người không có động cơ
này. Kết quả, người ở lại trường lâu hơn có IQ cao hơn, khả năng kiếm tiền cũng
hơn 7%.
-
Nghỉ học giữa chừng làm giảm IQ.
-
Chỉ số IQ bị ảnh hưởng bởi kỳ nghỉ hè. Các nhà nghiên cứu
đã chọn 2 học sinh kiểm tra riêng biệt trước và sau khi nghỉ hè. Kết quả, có sự
suy giảm trong hệ thống IQ ở 2 em này so với cuối năm học.
2. IQ không chịu ảnh hưởng của thứ tự sinh
Quan niệm con cả
khôn ngoan và có khả năng lãnh đạo hay em khôn hơn anh chị không đúng. Thậm
chí, có người còn cho rằng trong gia đình đông con IQ thấp. Thực tế, những người
khôn ngoan có xu hướng sinh ít con nhưng sự thực là không hề có liên hệ hay ảnh
hưởng nào gây tác động giữa quy mô gia đình và IQ của trẻ. Thứ tự sinh không dự
báo trước IQ của trẻ. Ngoài ra, 2 anh em ruột sinh gần nhau có thể có IQ tương đồng
hơn so với trẻ sinh cách xa nhau vẫn chưa có cơ sở chứng minh.
3. Sữa mẹ liên quan đến IQ
Những trẻ được
nuôi bằng sữa mẹ, được mẹ dành nhiều thời gian chăm sóc thường có IQ cao hơn trẻ
khác. Kết quả nghiên cứu những trẻ cùng điều kiện chăm sóc, chỉ khác nguồn sữa
nuôi thì em được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ có IQ cao hơn từ 3-8 điểm so với em
khác khi được 3 tuổi.
Lý do, sữa mẹ rất
giàu năng lượng axit béo omega 3, tăng cường màng tế bào não, tăng hiệu quả dẫn
truyền dẫn tạo ra từ những xung chấn thần kinh cho trẻ.
4. IQ biến đổi theo ngày sinh:
Tuổi nhập học của
các em giống nhau nhưng trẻ sinh vào 3 tháng cuối năm đi học muộn hơn bạn bè.
Các nhà nghiên cứu phát hiện những đứa trẻ sinh muộn trong năm sẽ có IQ thấp hơn
vì mỗi năm học IQ của trẻ sẽ tăng được 3,5 điểm. Với thời gian đi học ít hơn
các bạn nên những em sinh muộn trong năm có IQ thấp hơn.
5. Gen di truyền ảnh hưởng IQ:
Nghiên cứu 2 anh
em sinh đôi được nhận nuôi trong 2 gia đình trung lưu, người ta tìm ra liên hệ
này. Nhiều người nghĩ khi còn sống với gia đình, IQ của 2 anh em sẽ tương đồng.
Chỉ khi họ bắt đầu cuộc sống tự lập, có những kinh nghiệm sống riêng thì IQ mới
khác.
Sự thật, khi sống
tự lập IQ của 2 anh em càng trở nên giống nhau vì chịu tác động từ gen di truyền
ảnh hưởng tới trí thông minh của họ (sự tương đồng gen của 2 anh em là 50%).
6. Kích cỡ đầu liên quan IQ:
Phải tới khi có
phương tiện hiện đại quan sát hệ thần kinh, người ta mới chứng minh được mối
liên hệ này là có thật nhưng nó không đáng kể. Minh chứng cụ thể nhất là cuộc
khảo sát kích cỡ mủ đội đầu và IQ của quân đội Mỹ.
7. IQ thế hệ sau ngày càng tăng:
IQ tăng gần 20 điểm
sau mỗi thế hệ. Nếu tính điểm, hơn 90% người thế hệ hôm nay được gọi là thiên
tài ở những thế hệ hôm qua. Sự tăng trưởng về chỉ số thông minh do ảnh hưởng của
chế độ dinh dưỡng tốt hơn, thời gian đi học nhiều hơn, cha mẹ có phương pháp
giáo dục con tốt hơn, đồ chơi thông minh và ưu điểm của máy vi tính.
8. IQ bị ảnh hưởng bởi thực đơn ăn uống
Các nhà nghiên cứu
đã chứng minh chế độ ăn uống có khả năng ảnh hưởng tới chức năng của não, cá là
thức ăn phát triển tốt nhất cho sự phát
triển của não bộ. Theo phân tích số liệu quy mô lớn với hệ thống trường học ở
New York, sự ảnh hưởng này rất lớn.
Kiểm
tra IQ của gần 1 triệu trẻ em học sinh trước và sau khi đổi thực đơn bữa trưa
(với thực phẩm ít chất bảo quản, màu thực phẩm, ít màu sắc và ít dùng gia vị
nhân tạo), có đến 14% học sinh tiến bộ hơn hẳn, đặc biệt là với em có thể trạng
yếu.
Bài 2: Trên trang Wep
Thông tin Y dược Việt Nam với tựa bài:
Đo IQ của trẻ là một cách đã lỗi thời để
đánh giá trí thông minh
Trích từ News-Medical, 28/10/2004
Dựa trên một lý
thuyết được bắt đầu nghiên cứu từ gần 20 năm trước, tiến sỹ J.P.Das, giáo sư
tâm lý trường đại học Alberta đã triển khai “những quy tắc và công cụ trí tuệ”
chỉ ra các yếu tố khác ngoài IQ trong việc đánh giá “trí khôn” của trẻ.
Lớn lên trong một
khu nhà ổ chuột hay trong một gia đình thất học cũng có thể rất khôn ngoan kiểu
đường phố, nhưng không có học vấn cần thiết để đo IQ theo cách truyền thống.
Giáo sư Das đã
trình bày bản tham luận về “Các qui tắc và Công cụ trí tuệ: Chỉ số IQ đã trở
nên lỗi thời như thế nào” tại Hội nghị Tâm lý học Quốc tế lần thứ 28 tổ chức tại
Bắc Kinh, Trung Quốc hồi tháng 8, hệ thống hiện đang được sử dụng trên toàn thế
giới và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Ông đã xác định 4 “qui tắc trí tuệ” đi
sâu vào việc xử lý thông tin. Các qui tắc bao gồm quan điểm cho rằng trí tuệ
không phải là bất biến mà chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như nhu cầu học tập
và văn hóa, năng lực nhận thức, thậm chí cả việc đi học, cũng như năng lực cá
nhân để xử lý những thông tin như ngôn ngữ và nhận diện khuôn mặt.
Các qui tắc này dẫn
đường cho nghiên cứu về lý thuyết PASS (Planning, Attention, Simultaneous and
Succssive processing - Kế hoạch, Chú ý, Đồng thời và Thành công), được triển
khai năm 1994, PASS cho rằng không nên đánh giá trí thông minh chỉ bằng học vấn
và trắc nghiệm IQ, mà phải bằng quá trình xử lý thông tin trong học tập. Cái đi
vào năng lực trí tuệ và cách giải quyết vấn đề còn quan trọng hơn bản thân điểm
số.
Để kết thúc bài
viết này, xin giới thiệu với quý độc giả hai trong số nhiều trang web có thể
giúp tự kiểm tra trí thông minh trực tuyến.
1. Trang Web
tiếng Anh: www.iqtests.com
Trong IQtests.com có nhiều trắc nghiệm nhỏ, làm trong thời gian ngắn, khảo sát rất nhiều khía cạnh của trí tuệ. Tuy nhiên, vì nội dung viết bằng tiếng Anh, tốc độ làm bài chắc chắn bị chậm. Vì vậy điểm IQ thấp ta không nên băn khoăn nhiều, coi đó là để tập dượt.
Trong IQtests.com có nhiều trắc nghiệm nhỏ, làm trong thời gian ngắn, khảo sát rất nhiều khía cạnh của trí tuệ. Tuy nhiên, vì nội dung viết bằng tiếng Anh, tốc độ làm bài chắc chắn bị chậm. Vì vậy điểm IQ thấp ta không nên băn khoăn nhiều, coi đó là để tập dượt.
Ấn vào chữ "Start Testen" để bắt đầu.
Chúc may mắn
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trần
Trọng Thủy, Khoa học chẩn đoán tâm lý, NXB Giáo dục, 1992
2. Nguyễn
Quang Dương, Tâm lý học chẩn đoán. Giáo trình dành cho các sinh viên đại học
ngành tâm lý học.
3.
Trang WEB báo Thanh niên
-
Ngày 04/12/2001, Trí thông minh là gì ? (theo 10 vạn
câu hỏi vì sao) - Ngày 14/01/2002, Tự kiểm tra trí thông minh với IQTest.
-
Ngày 16/2/2005, Ba buổi thi đỗ trắc nghiệm IQ Mensa. -
Ngày 05/03/2005, Những điều chưa biết về IQ.
4.
Trang web Báo Lao động
-
Ngày 19/03/2005: 3,3% sinh viên có điểm chuẩn IQ rất
cao.
5.
Trang Web Thông tin Y dược Việt Nam.
-
Đo IQ của trẻ là một cách đã lỗi thời để đánh giá thông
minh, News-Medical, 28/10/2004