Một buổi sáng khá nhẹ nhàng, vội
vả đi tìm kiếm hương vị cà phê nơi góc quán quen. Vẫn những âm thanh của cuộc sống
thường nhật hàng, tiếng chim ríu rít, cơn gió buổi sáng khẻ lay động những chiếc
lá xanh non mơn mỡn đu đưa vui đùa cùng nắng, một nụ cười quen thuộc, đâu có tiếng
cười giòn tan của trẻ thơ thật rơm rả, tiếng xe luôn vội vả của bà mẹ chở đứa
con cho kịp giờ đến lớp khi mà bé vẫn còn ngáy ngủ trên xe…đó là những hình ảnh
thường nhật và rất đổi quen thuộc. Dạo bước thật nhanh chút nữa, mình sờ sũng
trước hình ảnh một ông bố tát cho đứa con một cái thật mạnh với tất cả sự bực tức
và bất lực, đứa trẻ vẫn đứng đó và dường như bé cảm thấy “khá bình thường” với
việc này. Tôi nán lại giây lát, chần chừ một lúc rồi lại tiếp bước. Trong cả một
ngày làm việc, hình ảnh ông bố bất lực này cứ mãi khơi gợi cho tôi nhiều điều mặc
dù điều này trở nên quen thuộc. Nhưng cói thói quen giáo dục con cái vốn dĩ được
mặc định là “bình thường” này luôn mang lại những tổn thương không tưởng cho trẻ
về cả tâm – sinh lý.
Không phải ngẫu nhiên mà ta lại
ví trẻ em như “búp” trên cành hay hình ảnh “búp măng non”. Trẻ như một thế giới
thu nhỏ, ấp ủ biết bao ước mơ, niềm tin và hy vọng cho một viễn cảnh tương lai
tốt đẹp. Nhưng thật sự không dễ dàng gì để cho búp măng ấy trưởng thành một
cách “khẳng khiu”, vươn mình mạnh mẽ. Yếu tố giáo dục từ phía gia đình luôn đóng
một vai trò nền tảng trong tiến trình phát triển của trẻ vì từ trong bụng mẹ
cho đến lọt lòng ‘thế giới” đầu tiên mà trẻ tiếp xúc và cảm nhận đó chính là
gia đình. Nhưng tiến trình lớn lên này không tránh khỏi những trở ngại, một
trong những trở ngại dễ dàng nhận ra đó là cách giáo dục từ gia đình, những mâu
thuẩn – xung đột giữa các thành viên trong gia đình bên cạnh đó là xung đột giữa
trẻ - bố mẹ, những trận đòn nhớ đời, sự ức hiếp, hụt hẫng mà trẻ phải chịu đựng.
Ngoài ra, sự thiếu chăm sóc cảm xúc, tình yêu thương không trọn vẹn hay thiếu hụt
tình cảm từ người thân đặc biệt quan trọng như bố, mẹ…trong những năm tháng đầu
đời sau khi lọt lòng.
Có những than phiền trở nên quen
thuộc từ các ông bố, bà mẹ mà chúng tôi dường như ngày nào cũng được tiếp nhận
như: “con tôi nghịch quá” hay “con của anh nó nghịch lại còn hay cắp vặt nửa”;
“cái tính nó hay nổi nóng lắm em ạ, nhỏ mà hay tự ái…cứ mổi lần nó nghịch gây
hư hại là lại đổ cho người này con kia” , đến trường học thì lại nghe thầy cô cứ
phàn nàn “bé học hành thiếu tập trung lại hay trên bạn trong lớp” và “đó…trường
hợp này đặc biệt đó…đánh bạn, chẳng coi ai ra gì, đã thế đến ba mẹ nó cũng hỗn
hào chẳng xem ai ra gì cả”…rất nhiều than phiền, không ít trẻ bị đưa vào danh
sách cá biệt.
Quan trọng và mang tính cốt lõi
là trong quá trình khẳng định mình trẻ sẽ không khỏi mắc phải những hành vi
tiêu cực, cần phải xác định như một hành trình giải mã các hành vi của trẻ như đó
là hành vi ứng xữ xuất phát từ những tổn thương tâm lý mà trẻ đang có, ức chế
mà trẻ mắc phải, hay với hành vi đó để cố nói rằng “tôi đây, hãy chú ý đến
tôi”…việc giải mã hành vi nơi trẻ luôn là một trở ngại cho các bậc làm cha mẹ. Tâm
lý trở nên khó chịu khi có một đứa con mà bị gắn mác quậy phá, là “hổ báo” tại
trường…làm cho phụ huynh trở nên thất vọng.
Các vấn đề về cư xử ở trẻ luôn được
xã hội quan tâm, dường như những vấn đề về hành vi ứng xử được xem như một dấu
hiệu báo trước về những đứa trẻ cá bệt, tội phạm ở tuổi vị thành niên, thanh
thiếu niên và cả tuổi trưởng thành. Tình trạng báo động với những “con số biết
nói” theo số liệu của Ban chỉ đạo Đề án IV “Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi
chưa thành niên”, từ năm 2007 - 6/2013, toàn quốc phát hiện gần 63.600 vụ,
gồm hơn 94.300 em vi phạm pháp luật hình sự. Trong đó tội phạm do người chưa thành niên gây ra chủ yếu là các tội:
Trộm cắp tài sản (21.812 vụ/33.010 đối tượng, chiếm 34,30%); Cố ý gây thương
tích (5.692 vụ/9.588 đối tượng, chiếm 8,95%); Gây rối trật tự nơi công cộng
(4.870 vụ/8.768 đối tượng, chiếm 7,65%); Cướp giật tài sản (3,76%); Cướp tài sản
(1,43%); Đánh bạc; Hiếp dâm, cưỡng dâm; Cưỡng đoạt tài sản; Giết người và một số
tội danh khác. Với những vấn đề trên luôn là mộ thử thách cho các cơ quan chức
năng, nhà giáo dục cũng như những nhà thực hành tâm lý, công tác xã hội…
Để tìm hiểm về một số giả thuyết, cơ chê hình thành nên các vấn
đề về hành vi, cư xử ở trẻ bên cạnh các yếu tố về sinh lý thực thể, cần có sự
tìm hiểu với góc độ tâm lý học phát triển giai đoạn 2- 3 tuổi. Nổi bật về sự
gia tăng khả năng vận động và khám phá môi trường, cũng bắt đầu từ đây là lúc
mà bố mẹ đặt những giới hạn kiểm soát và cấm đoán trẻ à một “cuộc chiến” giữa trẻ và bố mẹ với các vấn đề dỡ
khóc dỡ cười (Terrible two). Nếu như cuộc chiến này được giải quyết một cách ổn
thỏa sẽ là tiền đề cho sự phát triển giai đoạn tuổi mẫu giáo, trẻ sẽ vừa có khả
năng tự kiểm soát lại vừa biết tự dựa vào chính mình. Đó là khi “cuộc chiến” kết
thúc tốt đẹp, chuyện không một ai mong muốn khi mà sự phát triển bình thường
này sai lệch khi mà nhu cầu muốn tự khẳng định (tích cực) “bức phá” không thành
công, đưa đến kết quả tiêu cực với những vấn đề về hành vi và cư xử như rối loạn
thách thức chống đối (ODD - Oppositional Defiant Disorder), như một rào cản phá vỡ các mối quan hệ xung quanh trẻ (bạn bè, thầy cô…); mối liên hệ chăm sóc của người lớn, đồng thời trở nên nặng nề hơn hết đó là bóp nghẹt sự phát triển của chính trẻ.
Rối loạn thách thức chống đối (ODD) với các biểu hiện điển hình như cơn nổi nóng, thách thức, tranh cãi, hay đỗ lổi cho người khác, cố ý trêu ghẹo hay gây phiền cho người khác, dễ bị tự ái, giận dữ và thù hằn (DSM IV-TR). Sự khác biệt mang tính cốt lõi giữa ODD và CD (Conduct Disorder: Rối loạn cư xử) đó là trẻ ODD
không gây ra bạo lực trên quyền cơ bản của người khác hoặc các chuẩn mực hay
quy luật chính của xã hội như nói dối thường xuyên, gây hấn và trộm cắp. Hành vi
ODD giới hạn trong gia đình với bố mẹ, có liên quan đến các hành vi chống đối
xã hội và các sự kiện gây nên sự khó chịu trong gia đình.
--> To be continued