Chuyển đến nội dung chính

RỐI LOẠN ÁM ẢNH CƯỠNG CHẾ (OCD)



Rối loạn ám ảnh-cưỡng chế (OCD - Obsessive-Compulsive Disorder) là một dạng thuộc nhóm Rối loạn lo
âu. Người bị bệnh này có những ý nghĩ (bị ám ảnh) hoặc hành vi lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa nhưng không có khả năng kiểm soát (bị cưỡng chế) chúng – hành vi mang tính nghi thức nhằm chống tạo cảm giác an toàn (với y nghĩ là chống lại hoặc ngăn ngừa).  Những ám ảnh và hành vi cưỡng chế này ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hàng ngày của bệnh nhân (gây ra cảm giác hoang mang, lo lắng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động sống của bệnh nhân như công việc, học tập, đời sống hôn nhân…). Có những lúc, bệnh nhân vẫn nhận ra rằng những ý nghĩ ám ảnh và hành vi của mình là quá mức bình thường trở nên vô lý, bên cạnh đó thông thường là một sự mặc cảm về trách nhiệm – phải làm thế nào để chống lại và làm giảm bớt sự tổn hại từ các suy nghĩ xâm nhập.
- Ám ảnh: Bệnh nhân có xuất hiện những ý nghĩ mang tính ám ảnh hoặc cưỡng chế dẫn đến tình trạng lo lắng quá mức về tình hình hiện tại của bản thân. Những lo lắng này không những là những lo toan thường ngày của cuộc sống mà đôi khi chỉ là những vấn đề rất nhỏ như: sợ bẩn, sợ bệnh…Bệnh nhân cũng biết rằng việc đó là do tự mình suy nghĩ, tự làm chứ không phải là do người khác áp đặt/sai khiến. Bệnh nhân tìm cách phớt lờ, trung hòa hay dẹp bỏ các ý nghĩ đó bằng một hành động khác.
- Cưỡng chế: Bệnh nhân có những hành vi lặp đi lặp lại (rửa tay, kiểm tra, ra lệnh…), cảm thấy mình bị thúc đẩy làm như thế một cách cứng nhắc để ngan cản, xóa tan yếu tố ám ảnh. Ví dụ: Rửa tay liên tục (hành động bị cưỡng chế) vì sợ bẩn sẽ lây bệnh (ý nghĩ ám ảnh).
Các ám ảnh cưỡng bức phổ biến là: sợ bẩn, nghi ngờ quá mức, công kích và các xung động tình dục, các hành vi kiểm tra, làm sạch, rửa và đếm…mà các ý nghĩ ám ảnh và hành vi này không phải là hệ quả của việc lạm dụng một chất (chất kích thích, gây nghiện, thuốc men…) hay 1 bệnh khác gây nên.
Rối loạn OCD chiểm khoảng 2 – 3% dân số, nam nữ bằng nhau, bắt đầu từ sau 10 tuổi hoặc trước 20 tuổi
Quá trình điều trị phối hợp giữa Liệu pháp hóa dược và Liệu pháp tâm lý mang lại hiệu quả khá tốt cho người bệnh. Thông thường, Trị liệu theo cách tiếp cận nhận thức - hành vi (CBT) với việc thách thức lại các suy nghĩ ám ảnh – suy nghĩ tự động méo mó cùng với kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức, và ứng dụng phương pháp Giải cảm ứng hệ thống là hướng đi khá tốt cho những bệnh nhân bị Rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Bên cạnh đó hỗ trợ thông tin về OCD và quan trọng hơn là ý nghĩa của các hành vi cưỡng chế, kỹ thuật thư giãn cùng các kỹ năng mà thân chủ còn thiếu hoặc hạn chế, chăm sóc bản thân như chế độ ăn uống – sinh hoạt thể dục thể thao, tự thưởng…

Rối loạn ám ảnh cưỡng chế làm cho bệnh nhân rất đau khổ, khó chịu và bệnh có thể kéo dài nhiều năm trong đời sống (mãn tính) và có khuynh hướng tái phát. Nếu không điều trị kịp thời bệnh sẽ có khuynh hướng trầm trọng hơn và bệnh nhân không thể làm được việc gì ngoài những hành vi mang tính lặp đi lặp lại để xua tan ám ảnh. Tuy nhiên, các bệnh nhân bị OCD thường không thừa nhận mình mắc bệnh vì họ cảm thấy ngại, xấu hổ, bối rối và đôi lúc là nghi ngờ khi phải thừa nhận những ý nghĩ, hành vi mang tính ám ảnh, cưỡng chế này và chính điều này ngăn cản họ tìm kiếm sự trợ giúp từ các chuyên gia chăm sóc sức khỏe tinh thần (bác sĩ tâm thần, nhà trị liệu tâm lý)

Nguồn tham khảo :       1. http://www.ocduk.org/
3. DSM IV – TR
4. CBT Aplying Empirically Supported techniques in your practice.

Edit by William T. O’Donohue and Jane E. Fisher.
                                    5. Tâm lý bệnh học (Psychopathology) PGS.TS Nguyễn Văn Thọ.

Popular Posts

LOW - SELF ESTEEM - CƠ CHẾ, VÀ PHƯƠNG THỨC HỖ TRỢ CAN THIỆP TÂM LÝ.

Hồ Chủ Tịch, một vị lãnh tụ vĩ đại đã từng nói rằng “ Ai cũng cần có lòng tự trọng và tự tin. Không có lòng tụ trọng, tự tin là người vô dụng”. Vậy lòng tự trọng đóng vai trò quan trọng như thế nào ? Sự tự tin có phải là yếu tố nhằm cũng cố lòng tự trọng của mổi cá nhân? Với xu thế xã hội ngày nay, áp lực luôn tồn tại ở mọi lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, chính trị…Cơ chế thích ứng tạo nên sự cân bằng giúp con người hình thành và phát triển những đáp trả các tác nhân kích thích từ môi trường bên ngoài ? Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu cơ chế này trở nên thiếu thích ứng vì những trải nghiệm tiêu cực về giá trị hình ảnh của bản thân ? Những yếu tố nào gây nên sự thấp kém/giảm sút về lòng tự trọng ? Làm sao để thoát khỏi tình trạng này ? Đó là những khía cạnh được chúng tôi lưu ý đến trong bài viết này. Đối với trẻ em, và trẻ vị thành niên đây là hai nhóm tuổi có nguy cơ cao nhất về vấn đề suy giảm/nhận thức kém cỏi về hình ảnh bản thân/lòng tự trọng bản thân trở nên thấp kém. ( Low

HÀNH TRÌNH CUỘC SỐNG

Ai cũng gặp phải những khoảng thời gian khó khăn,có thể bị xem thường, hiểu lầm và ghét bỏ. Trong cuộc đời, dù là ai đi nữa cũng phải trải qua những thăng trầm cuộc sống: tình cảm, rắc rối trong mối quan hệ xã hội, gia đình, công việc...Với những trải nghiệm đau thương có thể làm cho con người trở nên mạnh mẽ hơn hoặc ngược lại, hình thành nơi con người những kinh nghiệm ứng xữ - giao tiếp. Và quan trọng hơn là "con mắt nhìn đời"!

VÌ SAO CẦN PHẢI ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TRONG QUÁ TRÌNH CAN THIỆP CHO TRẺ CÓ NGUY CƠ HOẶC MẮC PHẢI RỐI LOẠN TỰ KỶ

Trước một trẻ có nguy cơ tự kỷ (chưa hội tụ đủ các tiêu chí chẩn đoán dựa trên bảng phân loại sức khỏe tâm thần hiện hành DSM-V hoặc ICD 10) hoặc trẻ mắc phải các vấn đề về Rối loạn phát triển. Điều đầu tiên mà chúng ta cần phải thực hiện đó là: -          Đánh giá mức độ phát triển hiện tại mà bản thân trẻ đang có: trẻ có thể làm được gì ? Chưa làm được gì ? Điều gì mà bản thân trẻ có khả năng thực hiện trong tương lai cho đù đó là do bản thân trẻ hoặc được sự hỗ trợ từ người khác ? Những điều mà trẻ muốn làm ?... -          Dựa trên những khởi điểm từ bước một, chúng ta xây dựng một kế hoạch can thiệp dài hạn cũng những việc xây dựng một khung các nục tiêu can thiệp ngắn hạn một cách cụ thể. Đồng thời việc tư vấn và đồng hành cùng phụ huynh (thông báo về tình trạng và thông tin khoa học về tình trạng mà trẻ mắc phải, hướng phụ huynh của trẻ tiếp cận đến hệ thống hỗ trợ cho trẻ nếu có, cùng thảo luận về các phương thức can thiệp – trị liệu cho trẻ nhằm giúp phụ huynh hiểu - c