Khoa học luôn là một
chiếc chìa khóa diệu kỳ để mở ra những cánh cửa bí ẩn của thiên nhiên, hiện tượng
xã hội và quan trọng hơn là tìm hiểu và cải thiện chất lượng cuộc sống của con
người trong nhiều khía cạnh từ giáo dục, văn hóa, kinh tế….và khái cạnh chăm
sóc sức khỏe tâm lý – tâm thần của con người vẫn luôn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn
đến tuyệt vời.
Một góc cạnh có thể nói
là huyền bí mà không ít nhà khoa học đã bị cuốn hút, cống hiến cả sự đam mê với
các công trình nghiên cứu nhằm vén bức màn bí ẩn, đó chính là giấc ngủ. Nếu hiểu
một cách đơn giản đó chỉ là một sự thư giản và lấy lại năng lượng cho con người.
Phức tạp hơn một chút thì ngủ được hiểu đơn giản là giai đoạn nghĩ ngơi của thể
xác và trí não. Trong thời gian đó, các chức năng của cơ thể được ngưng hoạt động
một phần bên cạnh đó sự nhạy cảm với các tác nhân kích thích bên ngoài cũng bị
giảm đi nhưng vẫn dễ dàng được phục hồi lại. Được xem như là một trạng thái thức tỉnh tạm ngừng và dễ hồi
phục, trong khi ngủ cơ bắp dãn mềm, các hoạt động hô hấp và tuần hoàn chậm lại,
đó là lý do vì sao ta nói rằng hầu như toàn cơ thể được nghỉ ngơi trong khi ngủ.
Nhưng sẽ đơn giản hơn nếu như bạn không phải là nạn nhân của những rối loạn về
giấc ngủ, và những gì xảy ra trong giấc mơ hay ác mộng luôn có những ý nghĩa
riêng của nó, điều này được xem như là một thông điệp từ vô thức tiềm sâu trong
con người. Hay đơn giản và nhìn nhận dưới một góc nhìn hạn hẹp hơn đó là sự
nhắc nhở một cách nhẹ nhàng hay thể hiện một ước muốn, khát khao thầm kín đáp
ứng các nhu cầu hay các tác động từ cuộc sống hàng ngày nơi con người thông qua
đó giúp con người giải tỏa được một phần nào đó các ức chế. Hoặc đó là một cơ
chế “đặc biệt” nhưng không kém phần khó chịu vì sự trổi dậy này làm cho con
người có một cảm giác thiếu sự an toàn, làm rối loạn hoặc nặng nề hơn là đánh
mất đi nhịp sinh học trong cuộc sống. Dưới góc nhìn của khoa học, sự kết hợp và
giao thoa giữa tâm thần học, tâm lý học thần kinh và tâm lý học….các rối loạn
giấc ngủ được các nhà chuyên môn đề cập với một số khía cạnh đặc biệt. Trong
bài viết này chúng tôi xin đề cập đến các rối loạn bao gồm:
- Các cơn bất thường trong giấc ngủ với thuật ngữ tiếng anh là Parasomnias: các cơn lo sợ ban đêm, giấc mơ lo hãi (ác mộng), cơn thức dậy lo âu, chứng miên hành, cơn tự động vận động, nói mê hay nghiến răng lúc ngủ, hiện tượng đái dầm và cơn động kinh ban đêm.
- Tiếp tục vén bức màn bí ẩn, bắt gặp rất nhiều điều mà các nhà khoa học, nhà chăm sóc sức khỏe cũng như cá nhân mắc phải rất vất vả và khó nhọc để từng bước chống trả và cải thiện, trị liệu về những rối loạn giấc ngủ đặc biệt như: Cơn ngừng thở trong lúc ngủ, Chứng ngủ nhiều và Hội chứng Kleine – Levin.
Và bây giờ là hành trình tìm đến từng góc nhỏ như những “mãnh
ghép” được sắp xếp cho một bức tranh chưa hoàn chỉnh về các bí ẩn liên quan đến
sinh lý thần kinh, tâm lý – tâm thần của con người…mà có thể nói nhìn dưới góc
độ Phân tâm học hay các thuyết về khoa học giả tưởng là những gam màu hết sức
độc đáo, với những người mắc phải thì đó chỉ là một gam màu tối !
1. Các cơn bất thường trong giấc ngủ (Parasomnias):
Đây
là một nhóm trạng thái lâm sàng về bản chất không phải là các rối loạn trạng
thái ngủ và thức mà là các hiện tượng bất thường xuất hiện đột ngột trong lúc
ngủ, ở ngưỡng giữa thức và ngủ; phần nhiều xảy ra ở giai đoạn 3 và 4 (giấc ngủ
sâu) nên sáng dậy chủ thể không nhớ lại điều gì đã xảy ra. Các bất thường này
có thể gặp ở trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn.
1.1
Các cơn lo sợ ban đêm (Angoisses nocturnes)
Từ
ác mộng thường có một khái niệm không rõ vì có thể chỉ nhiều rối loạn khác
nhau: cơn sợ hãi ban đêm (ác mộng của người lớn); giấc mơ lo hãi; cơn thức giấc
lo âu.
Các
nghiên cứu điện não đồ cho phép phân biệt:
·
Cơn sợ hãi ban đêm xảy ra trong giấc ngủ
sóng chậm (giấc ngủ vận động mắt không nhanh NREM);
·
Giấc mơ lo hãi liên quan với giấc ngủ
nghịch thường (giấc ngủ vận động mắt nhanh REM).
1.1.1 Cơn
sợ hãi ban đêm:
Với
thuật ngữ: Cơn sợ hãi ban đêm các từ tương đương trong tiếng Pháp là: terreur nocturne; Anh: night terror, sleep terror
disorder; Latin: pavor nocturnus.
Đây
là một hành vi ảo giác xuất hiện đột ngột ở 1/3 đêm về tối: trẻ em đang ngủ, đột
nhiên thức dậy la hét thất thanh như bị kim châm, mắt lơ láo, vẻ mặt hết sức sợ
hãi, không nhận ra ai đang ở quanh mình, hình như không hiểu mọi người đang nói
gì. Kèm theo các rối loạn thần kinh thực vật: da tái, vã mồ hôi, tim nhanh, nhịp
thở nhanh. Sáng dậy không nhớ lại cơn. Khám xét không phát hiện nhân tố thực tổn
não. Cơn kéo dài vài phút. Ngay sau đó trẻ em ngủ lại.
Chẩn đoán phân biệt
Với
ác mộng (giấc mơ lo hãi). Ác mộng thường là các "giấc mơ xấu" kèm
theo nói mê và vận động cơ thể. Khác với các cơn sợ hãi ban đêm, ác mộng xảy ra
ở bất cứ thời gian nào trong đêm, vì người mơ rất dễ thức tỉnh và nhớ lại chi
tiết và sinh động nội dung giấc mơ.
Với
cơn động kinh lúc ngủ: cơn động kinh thường xảy ra cả ban ngày và ban đêm và điện
não đồ có các sóng đặc trưng của động kinh.
Ghi
điện não ban đêm cho thấy: cơn sợ hãi ban đêm xảy ra trong các giai đoạn 3 và 4
của giấc ngủ sóng chậm; cơn đặc trưng với các sóng chậm đơn dạng như quan sát
thấy trong phản ứng thức tỉnh với sóng chậm ở trẻ em (Fisher, Benoit).
Các
cơn sợ hãi ban đêm có tỷ lệ 1 - 3% số trẻ em dưới 15 tuổi, và 6% số trẻ em trước
tuổi đi học; trẻ em giai bị nhiều hơn trẻ em gái; thường gặp ở trẻ em có tiền sử
gia đình với cơn sợ hãi ban đêm. Các cơn này có thể liên quan đến một bất thường
nhỏ về thần kinh, có lẽ ở thùy thái dương. Ở thanh thiệu niên và thanh niên 19
đến 24 tuổi, cơn sợ hãi ban đêm có thể là triệu chứng đầu tiên của cơn động
kinh thái dương; song trong các trường hợp sợ hãi ban đêm điển hình, về lâm
sàng và điện não không thấy dấu hiệu nào của động kinh thái dương. Cơn sợ hãi
ban đêm liên quan chặt chẽ với cơn miên hành nhưng hoàn toàn khác với ác mộng
(H.I.Kapian).
Về
mặt điện sinh lý, cơn sợ hãi ban đêm cũng như cơn miên hành được xem là một trạng
thái thức phân ly với sự tăng hoạt thần kinh thực vật trong khi vỏ não vẫn ở trong
trạng thái ngủ sóng chậm và sâu (H.I.Kaplan).
Về
mặt tâm bệnh học, cơn sợ hãi ban đêm thường xảy ra trong giai đoạn xung đột
(Edipe (3 đến 6 tuổi) với biểu hiện lo âu rầm rộ (Hougel). Các cơn sợ hãi ban
đêm tăng hay giảm biểu hiện khả năng ban đầu còn non yếu khi đối mặt và xử lý
các lo âu (Odipe). Còn các cơn tồn tại kéo dài là do trẻ em mất khả năng rèn
luyện và cải thiện các cơ chế phòng vệ tâm thần hoặc do sự thoái lui về các tâm
thế tiền (Odipe).
Điều
trị: cơn sợ hãi ban đêm cũng như cơn miên hành ít khi cần điều trị. Nghiên cứu
các tình huống stress trong gia đình, áp dụng liệu pháp cá nhân và gia đình đôi
khi có ích. Trong các trường hợp cần thiết, chỉ định diazepam liều thấp trước
khi đi ngủ cho kết quả rất tốt.
1.1.2 Giấc
mơ lo hãi (ác mộng).
Thuật
ngữ tương đương Pháp: rêve d'angoisse, rêve angoissante, cauchemar;
Anh:
Dream anxiety disorder, nightmare, incubus; Latin: Incubus
Giấc
mơ lo hãi (ác mộng) là một giấc mơ dài gây sợ hãi. Trẻ em đang ngủ tự nhiên
khóc thét, kêu cứu, có khi thức dậy vẻ hoảng hốt, sáng dậy, trẻ thường kể lại
được nội dung giấc mơ xấu. Cũng như các giấc mơ khác, giấc mơ lo hãi hầu hết
thường xuất hiện trong giấc ngủ nghịch thường (giấc ngủ vận động mắt nhanh) lúc
đầu đêm. Giấc mơ dễ chịu thường xuất hiện lúc cuối đêm.
Phân
biệt giấc mơ lo hãi và cơn sợ hãi ban đêm: cơn sợ hãi ban đêm xảy ra vào 1/3 đầu
của thời kỳ ngủ, có nhiều rối loạn thần kinh thực vật và sáng dậy không nhớ lại
chi tiết điều gì đã xảy ra.
Giấc
mơ lo hãi có thể gặp ở trẻ em 3 đến 4 tuổi. Khoảng 30% số trẻ em nói rằng mới
có một giấc mơ lo hãi (Casou, Feldman). Cũng như cơn sợ hãi ban đêm, giấc mơ lo
hãi rất hay gặp. Giấc mơ lo hãi của trẻ em thường liên quan với một giai đoạn
phát triển cảm xúc. Đôi khi chủ thể đã gặp một sự kiện gây sang chấn lúc ban ngày.
Nó chứng tỏ quá trình cấu trúc hóa thành thục tăng dần của bộ máy tâm thần và sự
thành lập các cơ chế phòng vệ chính (chuyển di...).
Bố
mẹ cần khụyến khích trẻ em kể lại nội dung cơn ác mộng để giúp nó nhận biết và
giải quyết các khó khăn vì giấc mơ có thể phản ánh các khó khăn đó.
Nếu
giấc mơ lo hãi xảy ra thường xuyên và tổn tại quá thời kỳ (Edipe hay kết hợp với
các triệu chứng tâm thần khác thì có thể là biểu hiện của một rối loạn tâm căn
hay loạn thần). Đôi lúc cần có sự can thiệp từ các nhà chuyên môn khi mà mức độ
và tần suất của vấn đề này trở nên nghiêm trọng hơn, trẻ có thể bị tác động dẫn
đến khủng hoảng tâm lý như: sợ hãi hay ám ảnh nặng nề từ giấc mộng được lặp lại
nhiều lần và có nội dung tương tự, hành vi không rõ ràng hay những hoang tưởng
mà trẻ gặp phải. Sự can thiệp của nhà trị liệu góp phần cho việc giải tỏa những
kìm nén sợ hải của trẻ thông qua các hoạt động trị liệu thông qua trò chơi.
1.1.3 Cơn
thức dậy lo âu
Đang
ngủ, đột nhiên trẻ em thức dậy, vẻ mặt lo lắng, đi đến giường nằm của bố mẹ và
ngủ lại.
Ghi
điện não xác định cơn này xảy ra ở giai đoạn 3 và 4 của giấc ngủ sóng chậm lúc
đầu đêm (tức chu kỳ thứ nhất hay thứ hai của đêm ngủ).
Thường
không cần điều trị.
1.1.4 Chứng
miên hành
Thuật
ngữ Pháp: somnambulisme; Anh: sleep walking disorder, somnambulism.
Biểu
hiện: trẻ em đang ngủ, đột nhiên đứng dậy, ra khỏi giường, đi đâu đó, có thể có
vài động tác gì đó, rồi trở về giường, ngủ lại. Cơn kéo dài vài phút (10 đến 30
phút), trong cơn mất ý thức và sáng dậy không nhớ lại điều gì. Cơn xảy ra ở một
phần ba đêm về tối trong giai đoạn 3 và 4 của giấc ngủ sâu.
Chứng
miên hành thường bắt đầu ở trẻ em 6 đến 12 tuổi nhưng còn gặp ở thanh thiếu
niên và người ngoài 20 tuổi, nhất là ở người thuộc các gia đình có tiền sử miên
hành; tỷ lệ trội ở nam.
Khoảng
15% số trẻ em 6 đến 12 tuổi khai đã từng có ít nhất một cơn miên hành nhưng chỉ
1 đến 6% số trẻ em đó có cơn miên hành với hành vi nguy hiểm: có trên 2 đến 3
cơn mỗi tuần, có hành vi nhảy qua cửa sổ.
Chứng
miên hành thường liên quan đến các nhân tố stress song cũng cần theo dõi một bất
thường nhỏ về thần kinh nằm bên dưới rối loạn này.
Chứng
miên hành với hành vi tấn công (somnambulisme - terreur): hiếm gặp. Trẻ con
trong cơn miên hành có thể tấn công ai đó định giữ nó lại. Chứng này có thể kết
hợp với các nét tâm căn (lo hãi, ám ảnh sợ).
Nghiên
cứu điện não chứng tỏ cơn miên hành xuất hiện vào 1/3 đầu đêm, trong giai đoạn
3 vài 4 của giấc ngủ sóng chậm, khoảng 10-15 phút trước giấc ngủ nghịch thường.
Điểm chung của các cơn sợ hãi ban đêm, cơn miên hành và đái dầm ban đêm là đều
xảy ra trong giai đoạn giấc ngủ sóng chậm.
Điều
trị tham khảo: liệu pháp hóa dược cho kết quả tốt trong hầu hết các trường hợp
miên hành. Chỉ định một thuốc chống trầm cảm như amitriptylin 25mg một viên uống
trước khi đi ngủ trong vài tuần. Trong cơn miên hành có hành vi nguy hiểm, kết
hợp một thuốc chống trầm cảm và một thuốc chống lo âu (ví dụ: amitriptylin 25mg
1 viên với seduxen liều dùng trung bình cho trẻ em là 1mg/ kg cân nặng/ ngày)
dùng 2 đến 3 tuần liên tục uống trước lúc đi ngủ.
1.1.5 Các
cơn tự động vận động
Đây
là các biểu hiện vận động có nhịp (rythmie) trong giấc ngủ.
Thuật
ngữ tương đương: Latin: jactatio capitis nocturna; Anh: sleep -related head
banging (chứng vỗ đầu ban đêm)
Các
cơn tự động vận động biểu hiện bằng hành vi lắc lư đầu qua lại, có nhịp, có khi
lắc lư cẳng chân hay đầu gối, dao động trước sau mạnh ở tư thế đầu gối ngực.
Lúc mới bị, cơn không gây ồn ào nên không ai biết, đến khi vận động rất mạnh
làm di chuyển giường ngủ và gây ồn ào, trẻ em mới được đưa đi khám bệnh.
Các
nhịp vận động hết sức đều đặn, khoảng một nhịp mỗi giây. Các cơn kéo dài vài
giây, ít khi kéo dài 10 đến 15 phút, trong đêm có thể lập lại 3 đến 4 cơn.
Khoảng
4% trẻ em có rối loạn này (Lacombe) và thường gặp ở trẻ em trai.
Nghiên
cứu điện não: rối loạn vận động có nhịp rất hay gặp ở giai đoạn nhẹ của giấc ngủ
sóng chậm, hiếm gặp ở giấc ngủ nghịch thường. Điện não đồ bình thường, không
liên quan với cơn động kinh ban đêm và các bất thường khác của giấc ngủ. Trong
đa số trường hợp, các cơn tự động vận động tự nhiên biến đi lúc 3 đến 4 tuổi,
vài trường hợp có thể kéo dài đến tuổi dậy thì.
Về
mặt tâm bệnh lý, các trẻ em này không có bất thường gì đặc biệt.
Không
cần can thiệp bằng thuốc.
1.1.6 Chứng
nói mê: (Pháp: somniloquie; Anh sleeptalking hay somniloquy)
Chứng
nói mê rất hay gặp ở trẻ em và người lớn, xảy ra ở mọi giai đoạn của giấc ngủ.
Người ngủ phát âm một vài từ thường rất khó phân biệt và sáng dậy không nhớ lại
nội dung. Có khi kèm theo các cơn sợ hãi ban đêm và miên hành.
Chứng
nói mê đơn thuần không cần điều trị.
1.1.7 Chứng
nghiến răng lúc ngủ (Pháp: bnixisme; Anh: sleep related bnixism)
Chứng
này thường xảy ra ở giai đoạn 2 của giấc ngủ sóng chậm, có trường hợp bị đau
hàm lúc sáng dậy. Tiếng nghiến răng gây phiền cho những người ngủ cùng phòng.
Trường
hợp cần thiết, có thể cho thuốc cải thiện độ sâu của giấc ngủ như seduxen.
1.1.8 Đái
dầm (TOPIC RIÊNG)
1.1.9 Động
kinh ban đêm: (Pháp: épilepsie nocturne: épilepsie morphéique; Anh: sleep
epilepsy)
Về
lâm sàng, cơn động kinh ban đêm giống như cơn động kinh thường gặp, nét riêng
là cơn xảy ra trong lúc ngủ.
2. Các bệnh lý đặc biệt của giấc ngủ
2.1
Cơn ngừng thở trong lúc ngủ
Cơn
này hiếm gặp, thường không có dấu hiệu báo trước, biểu hiện ngừng thở ngắn, có
trường hợp nặng kéo dài trên 15 giây. Hậu quả của các cơn này là ngủ nhiều về
ban ngày hoặc thức giấc nhiều lần trong đêm
Có
một vài giả thiết:
Cơn
ngừng thở lúc ngủ là nguyên nhân chính gây đột tử (hội chứng đột tử) ở trẻ em
trước một tuổi, về nguyên nhân, có thể do hệ thần kinh kém thành thục, trung
tâm điều khiển hô hấp hoạt động yếu và trẻ em dễ nhạy cảm với các tác nhân có hại
(như trong nhà bị ô nhiễm khói thuốc lá, hơi than...); cũng có thể do tắc nghẽn
đường hô hấp (như viêm amiđan).
2.2
Chứng ngủ nhiều:
Rối
loạn này không chẩn đoán ở trẻ nhỏ, chỉ xem xét ở thiếu niên trên 13 đến 14 tuổi.
Có
hai loại:
·
Cơn ngủ rũ - đột mất trương lực hay bệnh
Gélineau, (Pháp: narcolepsie - cataplexie; Anh: narcolepsy - cataplexy). Đây là
một hội chứng kết hợp nhiều rối loạn; các cơn đột ngột mất trương lực thế đứng
vài giây đến 1 phút, thường do các cảm xúc dễ chịu kích phát. Các cơn ngủ gà
ban ngày không cưỡng lại được, kéo dài vài phút đến vài giờ.
·
Chứng ngủ nhiều không rỏ căn nguyên.
2.2.1 Đối với Cơn ngủ rũ - đột mất trương lực hay bệnh
Gélineau :
Có các biểu hiện liệt trong lúc ngủ
như:
·
Ảo giác lúc sắp ngủ: ảo thị, ảo thính
hay ảo giác tiền đình (mê đạo) thường gây sợ hãi;
·
Giấc ngủ đêm thường bị gián đoạn; lúc tỉnh
ra thường không nhớ lại hành vi trong cơn ngủ gà.
Nghiên cứu dùng kỹ thuật đa ký cho
thấy:
Sự vào giấc ngủ xảy ra ngay ở giai đoạn giấc ngủ nghịch thường không qua giai
đoạn giấc ngủ sóng chậm. Cơn đột mất trương lực được xem là đang trạng thái thức
đột nhiên xuất hiện một quá trình ức chế trương lực đặc trưng cho giấc ngủ sâu
xen vào. Các cơn này thường gặp ở độ tuổi 15 - 20; tỷ lệ mắc là 0,05 - 0,067 %
(M.Billiard).
Nguyên nhân của chứng ngủ nhiều có
thể là:
·
Biến đổi sinh lý về nhu cầu ngủ và nhịp
ngày đêm của mỗi người (trẻ em cũng như người lớn);
·
Bệnh lý thần kinh như viêm não, tăng áp
lực nội sọ, chấn thương sọ não, rối loạn chuyển hóa (đòi hỏi phải khám xét các
chuyên khoa hữu quan).
Điều trị
·
Vệ sinh giấc ngủ: chế độ ngủ trưa đều đặn,
môi trường tốt trong một số trường hợp có thể chữa khỏi cơn ngủ rũ không cần
dùng thuốc.
·
Hóa dược liệu pháp chỉ định khi cần thiết:
các thuốc kích thích thường dùng amphetamine và methylphenidate (Ritaline liều
5mg - 10mg đến 30mg); khi chứng đột mất trương lực trội thì kết hợp thêm thuốc
chống trầm cảm như amitriplylin.
2.2.2 Chứng ngủ nhiều không rõ căn nguyên:
Rối
loạn này ít gặp hơn cơn ngủ rũ 4 đến 5 lần; thường khởi phát ở độ tuổi 10 đến
20, chưa rõ nguyên nhân.
Biểu hiện:
giấc ngủ đêm kéo dài, rất khó thức dậy buổi sáng, ngủ gà ban ngày thường xuyên,
giấc ngủ trưa đều đặn không giúp cải thiện rối loạn này (điểm khác với bệnh
Gélineau). Giấc ngủ tuy dài nhưng bình thường về cấu trúc sinh lý và nhịp ngủ -
thức. Ghi điện não lúc ngủ phát hiện tăng thời lượng toàn bộ giấc ngủ, đặc biệt
là tăng rõ rệt giấc ngủ nghịch thường.
2.3
Hội chứng Kleine – Levin
Các
cơn đầu tiên xảy ra ở độ tuổi 10 đến 21, rất hiếm gặp. Đặc điểm lâm sàng là kết
hợp các chu kỳ tái diễn tiến triển một đến vài tuần với ngủ quá kéo dài kết hợp
với ăn nhiều, rối loạn hành vi (thu mình, ít giao tiếp xã hội), rối loạn tình dục
(giảm ức chế tình dục), rối loạn khí sắc (dễ bẳn gắt, vô cảm, hưng cảm, trầm cảm).
Đôi khi tiến triển đến loạn thần (lời nói không liên quan, mất định hướng, rối
loạn trí nhớ, hoang tưởng, ảo giác).
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Web:
http://sleepfoundation.org.
2. Web:
http://www.webmd.com/sleep-disorders/default.htm?names-dropdown=
3. Web: Australasian
Sleep Association
4. Tâm bệnh học trẻ em
và thanh thiếu niên _ Ts.Bs. Nguyễn Văn Xiêm.
5. Từ điển Tâm lý
học _ GS.TS. Vũ Dũng.