Công việc tham vấn - trị liệu tâm lý luôn là một lĩnh vực đầy
bí ẩn, đầy cuốn hút khi bạn sử dụng chính “con người của nhà tham vấn/nhà trị
liệu” để làm việc với thân chủ - những người đang có những vấn đề khó khăn về
tâm lý, rối loạn về chức năng về tâm lý. Dựa trên những kỹ thuật đặc trưng tác
động đến tâm lý con người thông qua tiến trình trao đổi/chia sẻ, cung cấp thông
tin…xin tạm được gọi là “điều trị thông qua lời nói”.
Chính bản thân những nhà chuyên môn về tâm lý, nhà thực hành
tâm lý cũng là con người. Đôi lúc, họ trở nên mệt mỏi với khó khăn
trong những ca can thiệp, những trường hợp mà bản thân nhà tham vấn/trị liệu thấy
“con người của chính mình” trong những rắc rối bản thân TC (thân chủ) đang gặp phải, đó là những vấn đề
rắc rối trong công việc, các mối quan hệ, việc vận dụng các liệu pháp can thiệp…chính
những vấn đề này, đòi hỏi có sự can thiệp và hỗ trợ từ những người giám sát
(NGS).
Một nhà trị liệu/hay một nhà tham vấn với những kỹ năng thực
hành tuyệt vời, điều này chưa chắc rằng đây là một người giám sát tuyệt vời. Những
kỹ năng được rèn luyện thông qua quá trình hành nghề tạo nên những kinh nghiệm
mang tính chuyên môn cao là một điều kiện tiên quyết, nhưng bên cạnh đó NGS cần
phải có sự nhạy cảm cần thiết – chắc chắn hữu ích trong công việc giám sát. Mục
đích của hoạt động giám sát là thông qua quá trình tương tác để đảm bảo sự cân bằng nơi nhà tham vấn/nhà trị liệu
tâm lý trong việc can thiệp (đối với TC đang được hỗ trợ) và sự đối đầu (quá
trình này được xem như là 1 tiếng vọng nơi con người của nhà tham vấn/trị liệu
gặp phải tạo nên những tác động ảnh hưởng đến việc tiếp cận và trị liệu/tham vấn
nơi người thực hành hỗ trợ/trị liệu tâm lý). Ngoài ra, còn đảm bảo tính chính
xác, khoa học về chuyên môn cũng như cách tiếp cận/thực hiện kỹ thuật tác động
đến tâm lý thân chủ một cách hiệu quả và tối ưu.
Giống như tiến trình tham vấn/trị liệu tâm lý thì hoạt động
giám sát này được thực hiện trong một khung làm việc được thiết lập. Trong quá
trình giám sát, người giam sát có đôi lúc sẽ phải đối mặt với các tình huống
mang tính “đối kháng”, “xung đột” với người được giám sát trong việc đánh giá vấn
đề nơi TC, về kỹ thuật và cách tiếp cận mà người được giám sát tiến hành với
thân chủ mình đã thật sự phù hợp chưa, còn hạn chế về điều gì…do đó, bên cạnh
những đòi hỏi mang tính sống còn đó là kinh nghiệm thực hành lâm sàng đó chính
là đạo đức của người giám sát. Một khi họ lạm dụng quyền giám sát thì hậu quả sẽ
trở nên nghiêm trọng khi mà các kết quả được đánh giá trở nên “méo mó” so với tiêu
chuẩn thực tế, báo cáo một cách gay gắt hay thiếu trung thực về sự tiến bộ, bị
tác động bởi các thành kiến cá nhân không chỉ ảnh hưởng đến người được giám sát
mà tệ hại hơn đó chính là tác động tiêu cực quá trình “chửa lành” từ thân chủ.
Nhiệm vụ đầu tiên mang tính tiên quyết và đóng một vai trò
quan trọng đó chính là tạo nên một môi trường học tập an toàn từ những kiến thức
chuyên môn khoa học kết hợp với những kinh nghiệm tực tiễn lâm sàng nhằm tạo
nên sự phát triển tích cực, thúc đẩy “sự lớn lên – trưởng thành về mặt chuyên
môn” nơi người được giám sát. Một khung làm việc cho quá trình giám sát được
thiết lập với những giới hạn rõ ràng, mục tiêu rõ ràng dựa trên sự bình đẳng và
thân thiện. Với quá trình chuyển tiếp này, những thách thức dành cho giám sát
viên thật sự không hề nhỏ đó chính là: luôn có những tình huống mang tính đối
kháng và xung đột về quan điểm về hệ quy chiếu…giữa giám sát viên và người được
giám sát; bên cạnh đó là sự trao dồi không ngừng nghĩ kiến thức chuyên môn, cập
nhật những thông tin mới, kỹ thuật mới lấp đầy những khoảng trống chuyên môn với
một tinh thần cầu tiến không xấu hổ từ giám sát viên; thông qua tiến trình làm
việc giám sát viên sẽ truyền đạt và lưu ý với người được giám sát về đạo đức nghề
nghiệp, tính nhân văn trong công việc….
Vậy những phẩm chất
nào cần có từ những con người chính danh với tên gọi giám sát viên ?
Đây cũng chính là vấn đề được nghiên cứu bởi De la Torre và
Applebaum (1974). Bên cạnh đạo đức nghề nghiệp, những kiến thức chuyên môn và
kinh nghiệm thực tiễn lâm sàng thì người giám sát cần có được sự khéo léo, nhạy
cảm trong quá trình làm việc. Sự đồng cảm với thân chủ và người thực hành công
việc hỗ trợ và can thiệp tâm lý được giám sát. Thái độ tôn trọng tính chất công
việc, đạo đức cũng như con người. Cam đảm trước những thách thức, thẳng thắn
trong việc đối phó với những khó khăn (của riêng mình và cả những khó khăn từ
những người được giám sát). Người giám sát như một chiếc gương phản chiếu, điều
này có một ý nghĩa quan trọng giúp cho người được giám sát sẽ nhìn nhận được bản
chất vấn đề đang xảy ra là gì ? có những sai lầm hay thách thức nào xuất phát từ
chính con người mình không ? Hay chiến lược can thiệp tâm lý này đã phù hợp
chưa ? kỹ thuật kia được sử dụng đã tạo nên những thay đổi tích cực mang tính tối
ưu trong tiến trình tham vấn/ hay trị liệu ?. Không chỉ là một người giám sát
mà đó là hình ảnh một người thầy dẫn dắt, và cả một học sinh cùng học, cùng
trao dồi thêm kiến thức với người được giám sát.
Giám sát không phải là phân tích, khi lắng nghe với sự phân
tích sẽ đòi hỏi sự chú ý, quá trình đối phó với những tưởng tượng vô thức cũng
như nguồn gốc lịch sử của cuộc xung đột…được cung cấp từ thân chủ. Nhưng cũng
là một quá trình lắng nghe, với vai trò là một giám sát viên thì đòi hỏi lắng
nghe có sự chọn lọc từ những mục tiêu được định hướng rõ ràng cần được học tập
với những khoảng thời gian được giới hạn nhất định. Giúp người được giám sát thấu hiểu về những
quy trình vô thức đang xảy ra nơi người được giám sát và cả thân chủ.
Tiếp theo -->